tiếp chuyện “xưa rồi Diễm “!-Phạm Viết Đào

MAI LÀ SINH NHẬT CỤ HỒ!

TRONG DI CẢO CỦA NHÀ VĂN SƠN TÙNG, TÔI CHỢT THẤY NHỮNG DÒNG NAY.

XIN TRÍCH – CHÉP LẠI HẦU CÁC FB HỮU

Phạm Viết Đào

… bài viết của Trịnh Huyên(Xuân Ba)

Bút tích nhà văn Sơn Tùng

Từ trong hang động Hoa Lư chuyển ra giữa đồng bằng sông Hồng này, đất Thăng Long này, là cả một hình thành, trưởng thành của dân tộc. Từ chỗ vua ở hang động, vua Lý Thái Tổ chuyển ra giữa thanh thiên bạch nhật, trên cái thế “Voi quỳ Hổ đứng”, cả cái Tam Đảo, cả cái Ba Vì chầu về đất thiêng, từ đông bắc Côn Sơn đều quay về đây cả. Thế mà định dời bỏ cái Hà Nội, cái Thăng Long như không. Không được! Rồi bỏ luôn quốc ca, may sao dân đấu tranh mãi mới giữ được cái Quốc ca. Người ta nói Quốc ca cũ không đủ tầm vóc Xã hội chủ nghĩa thì bỏ. Quốc ca là của hàng triệu con người. Thi mãi và chi rất tốn tiền mà chọn được 17 bài nhưng hát không ai chịu nghe cả. Cuối cùng lại trở lại bài “Tiến quân ca” của Văn Cao. Hồi đó người ta hiểu lầm, có lẽ ông Văn Cao “Nhân văn Giai phẩm” nên họ bỏ quốc ca, không phải! Ông Văn Cao không phải là cái lí do, mà vấn đề là ở chỗ họ muốn làm lãnh tụ, muốn đưa ra học thuyết, muốn vượt lên tất cả… Cụ Hồ là lạc hậu, là nho giáo, cỗ xe nho giáo ấy đã hết thời.

Từ ông Tổng tư lệnh, Đại tướng phong ngày 28-5-1948 tại rừng Tuyên Quang, mà cả Quốc hội, Chính phủ phong Đại tướng đầu tiên cho một người trí thức, cử nhân luật, cử nhân kinh tế giỏi, là Chủ tịch Hội nhà báo năm 1937 là Võ Nguyên Giáp… đến phong trung tướng cho một ông giang hồ tứ chiêng, giang hồ tứ chiêng là lấy của nhà giàu chia cho người nghèo.

Cái giang hồ của ông Nguyễn Phương Thảo tức Nguyễn Bình là thế, mà Bác Hồ giao nhiệm vụ cho ông Nguyễn Bình vào Nam lúc đó chưa phải là đảng viên, ông Bình xúc động quá:

– Thưa Bác, tôi chưa phải là đảng viên cộng sản, tôi vốn là đảng viên Quốc dân đảng, đi ra Côn Đảo bị giam chung với Trần Huy Liệu rồi chuyển sang và đi theo đường lối của Nguyễn Ái Quốc. Bác giao cho tôi vào phụ trách quân sự toàn miền Nam mà tôi chưa phải là đảng viên.

Bác Hồ nói với Nguyễn Bình:

– Tổ quốc trên hết! đảng viên ư? Tổ quốc trên hết. Đất lửa miền Nam chỉ có chú vào phụ trách quân sự toàn miền Nam mới tập hợp được các giáo phái.

Bấy giờ Nguyễn Bình vào Nam làm liên khu trưởng, Quân khu trưởng nhưng chưa phải đảng viên. Cho đến ngày 28-5-1948 ông được phong Trung tướng.

Bác sử dụng người có tài vào địa hạt nào, công tác nào là phát huy được cái đó. Nguyễn Bình tập hợp được nhiều giáo phái, thì đến hết năm 1947, Bác đánh một cái điện cho Bảy Viễn, tướng Bình Xuyên. Thế là Bảy Viễn kéo tất cả quân của ông ta ở rừng Sác đi theo Nguyễn Bình, nhập vào đại quân. Sau đó “có người” phá, chia rẽ giữa Bảy Viễn với Nguyễn Bình nên Bảy Viễn quay vào Sài Gòn nhận thiếu tướng của quân đội Pháp và tuyên bố: Nhận thiếu tướng nhưng không bao giờ đi đánh trận nữa mà ra làm khai thác gỗ. Những người đàn em của Bảy Viễn hỏi ông là: Không đi đánh nữa thì đàn em bao giờ được lên? Bảy Viễn nói: ta lỡ bước, ta đã hiểu Cụ Hồ nhưng không đi trọn được con đường của Cụ Hồ là vì “cán bộ” họ chia rẽ ta với Nguyễn Bình. Và ông ở vậy cho đến thời Ngô Đình Diệm lên diệt giáo phái thì ông mới sang Pháp.

Tức là con đường Bác Hồ là con đường thu vén tất cả dân tộc vào, chứ không có giai cấp, không đặt giai cấp lên trên dân tộc, xã hội có giai cấp nhưng không đặt giai cấp lên trên dân tộc.

Đầu tiên khi về Pắc Bó, Bác nói với ông Đồng, ông Giáp, ông Lê Quảng Ba, ông Chu Văn Tấn, lúc đó, các ông gần gũi Bác, và cả ông Trường Chinh nữa, là

“Gác cái khẩu hiệu giai cấp lại, bây giờ là vấn đề dân tộc, dân tộc không giải phóng được thì ngàn đời không thể giải phóng được giai cấp. Nhân dân ta là một khi. Tổ Quốc lâm nguy thì ông địa chủ đến người cố nông, đều một lòng chống giặc, vì thế là vấn đề dân tộc giải phóng”.

Về cải cách ruộng đất thì Bác Hồ không chấp nhận cái cải cách ruộng đất kiểu này, mà Bác đã cho ra Sắc lệnh giảm tô, giảm tức 25% từ năm 1949. Tất cả các đồng chí lúc đó lòng dạ ai cũng yêu quý Bác Hồ, nhưng lại tôn sùng ông Mao là “nhà lý luận Trung Quốc”, là cái mẫu của Châu Á” đem bê vào (điều lệ). Các đồng chí với lấy cái “mẫu” của Trung Quốc vào nên mới đưa ra đưa vào điều lệ Đảng như thế, và phải làm “thổ cải”. Bác Hồ không tán thành cải cách ruộng đất, Bác chỉ “trưng thu, trưng mua, hiến điền” chứ không chủ trương đấu tố. Lúc đó mấy đồng chí trong Bộ chính trị, đặc biệt là đồng chí Trương Chinh (tấm lòng đồng chí trong sáng, là người có nhân cách lớn, phải nói thế) nhưng quan điểm của đồng chí Trường Chinh là: – Không phát động nông dân thì nông dân cứ chịu ơn địa chủ suốt đời, phải cho nông dân đấu tố để nông dân vùng lên. Khi ra biểu quyết thì Bác Hồ chỉ có 3 phiếu, nhưng cũng là “thiểu số”. Cụ Vũ Đình Huỳnh kiên quyết bảo vệ quan điểm của Bác là hiến điền trưng thu, trưng mua rộng đất chia cho nông dân…

*

* *

Năm 1941, khi Bác về Pắc Bó có bài ca lịch sử kể từ đời Hồng Bàng đến các vua Hùng cho đến các đời vua… và cuối cùng nói “năm 1945 thì cách mạng hoàn thành”. Lúc đó có người tưởng Bác nói thế để động viên, không phải.

Đến năm 1960 Bác ghi là “15 năm nữa sự nghiệp thống nhất hoàn thành”, vậy nên khi viết Di chúc Bác nói: – “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài mấy năm nữa”, và thực tiễn xảy ra đúng là “mấy năm nữa”, nhưng lúc đó người ta bỏ cụm từ: “mấy năm nữa”?!

*

* *

Tôi đưa tư liệu của tôi, tôi nói Bác Hồ sinh ra trong một gia đình nhà quan, tôi đưa tư liệu nhà quan. Còn các nhà nghiên cứu Hồ Chí Minh học thì nói Bác Hồ sinh ra trong gia đình bần cố nông, thì đưa tư liệu bần cố nông ra, để người đọc phân định. Nói tôi lợi dụng đề tài Bác Hồ để hạ thấp Bác Hồ, nói Bác Hồ có người yêu là hạ thấp Bác Hồ, nói Bác Hồ thành phần bóc lột sinh trong nhà quan là hạ thấp Bác Hồ, Bác Hồ là người của giai cấp…

Ta đọc sách, ta đọc lịch sử, ta biết Bác Hồ sinh ở làng Chùa, quê ở làng Sen, sau vào Huế học. Tôi nghiên cứu, tôi thấy thế này: nếu Bác Hồ không đi vào Huế từ thủa thiếu thời thì con người ấy cũng bị hạn chế, hạn chế về mặt văn hoá cội nguồn và thanh lịch ở đất kinh đô.

Huế là trung tâm văn hoá của cả nước ta vào thế kỷ 19, Bác Hồ vào Huế cuối thế kỷ 19, lúc đó Huế là trung tâm của cả nước. Ở Nam Bộ, cụ Phan Thanh Giản đi thi phải ra Huế, còn khúc ruột miền Trung từ Bình Thuận trở ra đến Quảng Nam, thi hương là phải ra Huế. Đầu thế kỷ 20 mới có trường thi hương ở Bình Định. Ở Bắc thì Lạng Sơn trở vào cũng phải vào Huế để thi Hội. Diện mạo các nhà trí thức, các nhân sỹ, các ông quan (xin nói thực có một thời kỳ cực đoan, đã nói “quan” là phong kiến, quan là xấu.

Nói các quan “xấu” như thế sao lại truyền giòng nối dõi văn hoá Việt Nam mấy nghìn năm được!? Cố nông thì làm sao giữ được văn hoá vật chất của dân tộc? Chúng ta vô cùng quý trọng cố nông, người thợ nhưng nói đến diện mạo văn hoá là phải nói đến trí thức. Các gia đình khoa bảng, gia đình nhà quan truyền từ đời này qua đời khác-các ông quan tham nhũng thì cá biệt thôi. Tất cả tham nhũng thì còn gì là văn hoá Việt Nam, bản lĩnh, bản sắc Việt Nam. Không có Nguyễn Trãi thì ta làm gì có văn hoá thế kỷ 17, thế kỷ 18 sang thế kỷ 19 cũng vâỵ. Ở nhà cái ông giàu nhất nước, mà xưa nay chưa có nhà nào mà cha con đồng triều là tể tướng, là thân sinh Nguyễn Du và Nguyễn Du. Bác Hồ của chúng ta chính là con người nối tiếp những cái (văn hoá cội ngồn) này chứ.

Thế kỷ 19, Bác Hồ sinh ra năm 1891, tôi nói đây là nói nghiêm cứu từ gốc. Bây giờ nói Bác sinh năm 1890, nhưng tôi nghiêm cứu tử vi của Bác thì Bác sinh năm 1891. Bác đi làm cách mạng, Bác khai 1890, nhiều người chúng ta khi đi học, đi hoạt động cũng khai bớt hoặc thêm tuổi như thế. Bác sinh năm 1891. 1895 Bác vào huế, tuổi ta là 5 tuổi, tuổi bắt đầu có trí nhớ, tuổi mà người ta dễ nhớ nhất là tuổi này, tuổi lên 5 đến lên 10. Bác 5 tuổi đi theo cha mẹ vào Huế khi ông Nguyễn Sinh Khiêm đưa cho tôi cuốn “Tất Đạt tự ngôn” là tháng 6-1950. Sau đó ít tháng thì cụ qua đời. Trong “Tất Đạt tự ngôn” thì cụ có ghi ba bài thơ về thời niên thiếu của em trai mình, tức Bác Hồ.

Ba bài thơ này cũng hấp dẫn tôi. Thời đó tôi là một anh thanh niên học sinh, mới đi hoạt động Đoàn thanh niên cứu quốc (chưa phải Đoàn thanh niên Hồ Chí Minh). Cụ đưa cho tôi đọc bài thơ hay quá đi, thấy tôi ngỡ ngàng không tin, thì cụ nói thế này:

Cháu ạ, bây giờ nhớ gì ghi nấy. Bọn Tây nó “thuốc” bác bằng rượu khi bác đi tù. Bác vào nhà tù 1914, sau bác chống lại thì 1918 nó đày vào cực Nam Trung Bộ. Bác vốn không phải là người nghiện rượu, nhưng sau này thì không có rượu là bác không chịu được và trí nhớ của bác mất dần đi. Bạn học của bác đi thi vào năm 1904 đỗ cử nhân, đó là ông Đào Nhữ Tuyên, con trai cụ Đào Tấn. Anh em bác học vào loại giỏi nhưng không đi thi. Bây giờ bác không còn được như xưa, nhớ cái gì thì bác ghi vào đây, chứ không có hệ thống. Cháu là người có tấm lòng muốn tìm hiểu gia cảnh nhà bác thì bác đưa cho cháu cuốn ghi chép này, thấy có ích thì cháu dùng, khai thác, không nữa thì đốt, đừng giao..cho ai, vì trong này bác ghi nhiều cái không tiện nói ra. Trong đó bác có ghi họ Hồ là thế nào…về họ Nguyễn thì thế nào…và ngày chú Thành mở nước độc lập thì là Hồ Chí Minh, chứ không lấy họ Nguyễn là vì sao? Trong cuốn này cũng nêu ra bài thơ đó là: Trên dèo ngang hai bài thơ 1895, còn bài nữa là “Ba ông phỗng” năm 1903.

Cụ Khiêm kể lại: Hôm đó cả nhà bác chuẩn bị đi vào Huế, bác ngủ với bà ngoại, em Thành ngủ với mẹ, còn chị Thanh thì ngủ với dì An. Đêm đêm bác thấy bà khóc, ngày bà vui, đêm nào cũng nghe thấy bà khóc. Sáng hôm sau thấy bà đi xin mo cau cả làng (xưa dân ta lấy mo cau làm gàu múc nước). Bác với chú Thành mới lấy mo cau cắt thành cái thuyền đem thả ao trước nhà, bà không cho, bà bảo đây là dép của các cháu, cha mẹ cháu để đi vào kinh đô, thời đó chưa có nhiều giầy dép như bây giờ. Bác thấy bà ngoại đo chân cha mẹ, đo chân cho 2 em bác.

(Bây giờ mới thấy các cụ ta ngày xưa đi tìm cái chữ ở kinh đô Huế, đi trên những phương tiện như vậy, không dép săm bô như ta bây giờ, ngày ấy có đôi dép da bò đã quý rồi)

Bác hỏi:- Mẹ, tại sao đêm bà lại khóc?

Về sau mới biết tâm sự của bà thế này: lúc đầu cha mẹ bác tưởng bà khóc vì bán ruộng cho con rể vào kinh đô học: bán mất 5 sào. Bà ngoại đêm nằm buồn mà khóc, không phải tiếc bán 5 sào ruộng cho con rể vào kinh đô học, vì “chữ nó sẽ đẻ ra ruộng, chứ ruộng không đẻ ra chữ” bán ruộng cho con đi học, có chữ về thì cái chữ nó lại đẻ ra ruộng. Còn cái ruộng bán đi đánh bạc thì mới mất, nên không có gì mà khóc cả. Khóc là vì bà không có con trai. Ông tú thì mất rồi, con rể coi như con trai, con gái là chỗ dựa, bây giờ cả nhà kéo đi vào Huế, bà ở nhà cô đơn một mình, hai cháu trai và cháu gái cũng đi, (vì thế nên cha mẹ bác chỉ cho hai anh em đi vào huế, còn chị Thanh phải ở lại quê với bà, để sớm hôm có bà có cháu).

Như vậy cha mẹ bác quyết định vào Huế không phải là để làm ăn sinh sống trở thành người Huế đâu, mà muốn cho anh em bác vào Huế để học. Cha bác vào đó để làm bạn với các nhà khoa bảng ở kinh đô. Các ông qua thời đó đều là Tiến sĩ, là Hoàng giáp, là Đình nguyên, ít ra là Cử nhân. Đúng là cha bác vào trong Huế đã tạo ra được một cái “chiếu văn”, các ông quản trong triều thường đến đó bình văn, bình thơ cùng với các cụ đồ ở kinh đô.

Ông Khiêm kể tiếp: Khi đi dép mo cau, một lúc là rách phải thay cái khác, còn chú Thành thì được cha cõng trên lưng. Trên cao chú quan sát hỏi hết chuyện này đến chuyện khác: núi này là núi gì mà cao thế? Bà ngoại hay ví “trèo truông mới biết truông cao” là nghĩa nó ra làm sao? Có được bao nhiêu nước để gọi là biển. Chú ấy hỏi nhiều chuyện. Còn bác thì chân nó đau, đi mấy ngày liền, có khi bác khóc. Mẹ bác lại động viên: “Em nó vui vẻ hỏi chuyện này chuyện khác con là anh mà chẳng vui chi cả”. Chú thì được cha cõng, đến đường bằng thì chạy tung tăng, hỏi nhiều thứ, còn lạ mắt cho nên mẹ bác nói em thông minh hơn anh. Rồi cụ Khiêm nói: mà chú ấy thông minh hơn bác thật…?

Lúc đến chân Đèo Ngang, đường lúc đó có đoạn sát với biển, không như đường ô tô bây giờ. Đến chân Đèo Ngang, có bãi cỏ rất bằng, mẹ bác mới đặt gánh xuống, cha bác xếp ô lại bảo: chỗ này phằng phiu, nghỉ lại đây ăn cơm nắm, để rồi leo đèo, Bác ngồi xuống thì ôm bàn chân rộp, còn chú Thành thì nhảy chơi, mới hỏi cha:

– Thưa cha, cái gì ở trên kia mà đỏ, lại ngoằn ngèo như rứa? Cha bác nói:

Đó là con đường mòn vắt qua đèo, tí nữa ta phải đi leo trèo lên đó, lên cái đường mòn đó.

Thế rồi chú Thành mới ứng khẩu luôn một bài thơ. Sau này bác ghi lại trong cuốn sách “Tất Đại tự ngôn” này:

“Núi cõng con đường mòn

Cha thì cõng theo con

Núi nằm ì một chỗ

Cha đi cúi lom khom

Đường bám lì lưng núi

Con tập chạy lon ton

Cha siêng hơn hòn núi

Con đường lười hơn con”

Nói về văn, thơ, tôi là anh thanh niên năm 1950 tiếp xúc với bài thơ này trong cuốn “Tất Đại tự ngôn” của người anh ruột Bác Hồ viết lúc 5 tuổi thì tôi hơi sững sờ. Ông Khiêm nói tiếp:

Lúc đó, cha bác mới mở cái ví vải lấy lá số tử vi của con ra xem, bác mới biết cha đã lấy tử vi cho các con. Cha bác nói với mẹ:

Với thiên tư này, thằng bé sẽ khó nuôi, có lẽ, quan Đào Tấn với ông ngoại đã nói như thế không nhầm.

Rồi bác Khiêm lại nói: – Lúc đó bác cũng chẳng có bụng dạ gì, vì chân phỏng rộp đau. Ăn cơm nắm uống nước đựng trong quả bầu khô xong, cả nhà lại leo núi, chú Thành lại được cha cõng trên lưng. Cụ Khiêm nói, anh em bác ở làng Sen chỉ biết ao, biết sông, biết hồ, biết núi, chứ biển chưa thấy. Hôm đó, đến đỉnh đèo thì dừng lại nghỉ, bác lại ngồi ôm chân, chú Thành lại chạy nhảy, rồi nói:

Cha ơi, cái ao ở đây sao lớn thế? Cha bác nói:

Không phải ao đâu con ơi, đó là biển đấy chứ.

Lúc đó, đứng trên đèo Ngang là nhìn thấy biển, ở đây thì xuống là đến Ròn tức là Cảnh Dương của Quảng Bình. Lần đầu tiên thấy biển lại cứ gọi là ao, cha bác phải nói là biển. Chú ấy lại hỏi:

Cha ơi, tại sao bò nó lại lội trên biển? Cha bác cười bảo:

Không phải bò đâu con ơi, đó là cánh buồm, thuyền nó chạy trên biển đó.

Chú ấy ứng khẩu đọc bài thơ.

“Biển là ao lớn

Thuyền là con bò

Bò ăn gió no

Lội trên mặt nước

Em nhìn thấy trước

Anh trông thấy sau

Ta lớn mau mau

Vượt qua ao lớn”

Cụ Khiêm nói một câu tâm sự, mà cũng là tâm trạng: – Cháu ạ, con người ta có số mệnh. Số mệnh có khi nó xuất ra thành ý. Cái thông thường, cái lẽ thường anh là phải nhìn thấy trước chứ vì anh ra đời, khôn hơn. Nhưng đây lại nói là “em nhìn thấy trước anh, anh trông thấy sau”, cái khẩu khí đó cũng là cái ứng mệnh. Bác là anh, bác đau chân, bác không còn nhìn những gì ở xung quanh, nhưng chú ấy quan sát, chú ấy lại ứng khẩu được cái đó “ta lớn mau mau, vượt qua áo lớn”. Cái khẩu khí ấy là cái “ứng mệnh” nên suốt cuộc đời chú Thành phải đi hết nơi này nơi khác, năm châu bốn biển, còn bác chả thấy gì, bác cứ yên vị, bác sống trong xó quê như thế này!…

Cụ Khiêm nói với tôi điều đó năm 1950, sau này tôi công bố hai bài thơ ấy trên báo VĂN NGHỆ số Tết năm 1980, lúc đó là chuẩn bị Đại hội 5. “Búp sen xanh” chưa ra, tôi mới đưa hai bài thơ này và viết lại cái đoạn gặp cụ Nguyễn Sinh Khiêm. Khi đó nhà văn Nguyễn Văn Bổng là Tổng biên tập báo Văn nghệ trước khi đăng mới đến hỏi tôi:

Có chính xác không anh? Mới 5 tuổi mà làm hai bài thơ, trẻ con thì trẻ con thật nhưng rất trí tuệ; – Tôi nói: Anh cứ đăng đi, có chi tôi chịu trách nhiệm.

Đến khi báo ra thì người đến gặp tôi là bác Khương Hữu Dụng, nhà thơ nổi tiếng về thơ Đường, bác rất giỏi, bác năm nay 95 tuổi đang sống (Tôi cho rằng ở Quảng Nam ta có bác Khương Hữu Dụng, một nhân cách nhà thơ, nhà giáo, bác dạy học suốt thời tuổi trẻ, sau cách mạng Tháng 8 bác mới thôi dạy học. Xưa bác viết báo Tiếng Dân chủ cụ Huỳnh Thúc Kháng). Cụ hỏi tôi:

Tôi mới được đọc hai bài thơ của Bác Hồ thời thơ ấu hay quá mà mình cũng nghi quá, ông có thêm chữ nào vào đây không?

– Chết, ai lại làm cái việc này thưa bác? – Tôi nói.

(Ta phạm sai lầm là khi viết cái điển hình chăn nuôi để phong anh hùng, chiến sĩ thi đua thì thường mượn lợn hàng xóm thả vào chuồng, mời nhà báo đến, toàn “tạo” thêm thành tích ba lăng nhăng. Còn đây là viết về vĩ nhân, đây là viết về Bác Hồ, mình thêm là mình có tội. Còn nếu của tôi thì tôi thành tác giả, việc gì mà nói là của Cụ Hồ). Cụ Dụng lại cười tươi, nói:

– Đọc xong mình sợ quá. Trần Đăng Khoa nó giỏi nhưng thời nay nó khác, nó có thông tin báo chí tuyên truyền nhanh, có hệ thống, thời đó thì không có mấy, thời đó làm gì có báo chí như vậy. Thông minh như Trần Đăng Khoa tưởng tượng “cành lá dừa như cái lược chải trên trời”, “quả na chín là quả na mở mắt”, “gà gọi mặt trời lên”… Bên này hai bài thơ Bác hồi nhỏ mà tầm tư tưởng lớn quá.

Sau này đưa vào cuốn “Búp Sen Xanh” thì Thủ tướng Phạm Văn Đồng có mời tôi lên làm việc, Thủ tướng có hỏi về hai bài thơ. Thủ tướng mời tôi ngày 10-4-1982, lúc đó đã kết thúc Đại hội 5, bác Phạm Văn Đồng nói như thế này:

Tôi có mấy điều để nói với đồng chí, có những điều Bác Hồ kể với tôi, vì tôi sống có một mình… thỉnh thoảng ăn cơm với Bác, sau khi ăn xong hai người thường ngồi bên ao cá kể chuyện thời nhỏ của Bác. Nhưng lần này tôi thấy đồng chí lại biết khai thác được những chuyện như thế này. Tôi không hiểu tại sao đồng chí lại biết những chuyện này? Đồng chí cũng không phải là thư ký của Bác, đồng chí là nhà báo, thỉnh thoảng có đi với Bác nhưng chắc không bao giờ Bác kể chuyện này, trong đó có trường hợp cô út Huệ là người tiễn Bác xuống tàu. Trong sách có ba bài thơ, bài thơ thứ ba không nói, còn bài thơ Đèo Ngang tại sao đồng chí lại tìm được?

Bác Đồng mời tôi lên thì bao giờ tôi cũng có cái “thủ thân”, được khen thì tốt, nhưng khi bị hỏi thì sẵn sàng có cái “thủ thân” mà chìa ra. Tôi mang cả cuốn “Tất Đạt tự ngôn” đi theo, tôi nói:

– Cụ Khiêm giao cho tôi tháng 6-1950 thì tháng 9 cụ qua đời. Cụ có ghi trong sách hai bài thơ này, (tôi chìa ra thì bác Đồng bảo tôi), đồng chí đã lấy tư liệu chu đáo như thế này, vì không ai hiểu Bác Hồ bằng anh chị ruột của Bác. Đồng chí lại có cái duyên may được gặp các anh chị Bác Hồ, lại được các cụ tin cậy giao cho cuốn sách ghi chép của cụ cuối đời và kể lại thế này. Các cụ nhà nho khi về già thường kỹ tính lắm, không dễ nói ra đâu.

Sau tôi phải nói thật với bác Đồng: ông Bùi Xuân Phong xưa là bạn của cụ Hoàng Xuân Hành (chú ruột, mẹ Bác Hồ), cùng đi với cụ Hành, không phải tự nhiên các cụ kể cho biết đâu. Cụ Bùi Xuân Phong hy sinh ở Nhã Nam thời cụ Hoàng Hoa Thám nay vẫn chưa tìm thấy mộ cụ tú Bùi. Nói điều đó là để bác (Đồng) tin được. Bác Đồng lại nói:

– Tôi hỏi đồng chí như thế vì đọc trong cuốn sách có nhiều điều xúc động, nhưng có hai bài thơ ở Đèo Ngang tôi cứ bâng khuâng, giá mà biết trước cái này thì Bác còn sống mà nhắc lại chắc lý thú lắm. Nhưng Bác “đi mất rồi”! Có khi nào mà cái tuổi lên 5 mà cấu trúc được bài thơ ngắn, cấu trúc ấy lại tạo ra được giữa cái “tĩnh” với cái “động”, tư duy này tư duy “Dịch lý”.

Bác Đồng là người giỏi Dịch lý, con quan mà. Các đồng chí để ý ngày bác Đồng mất, họ chiếu cái phim về Thủ tướng Phạm Văn Đồng, có đoạn quay cái nhà thờ của gia đình bác Đồng ở Quảng Ngãi, thì người ta quay xa xa, không quay cận cảnh bàn thờ vì toàn là những ông đội mũ cánh chuồn. Gia đình bác Đồng nhiều người làm quan, như thế “họ” sợ mất lập trường nên không dám quay rõ. Bác Đồng là con quan, học giỏi, học hành kỹ lưỡng nên mới thấu hiểu được “cái động”, “cái tĩnh” trong bài thơ của Bác Hồ.

Rõ ràng cái gì thuộc về thiên nhiên tạo đều “tĩnh”, cái gì thuộc về con người là “động”. “Núi cõng con đường mòn”, Cha thì cõng theo con”, “Đường bám lỳ lưng núi” là tĩnh, “con tập chạy lon ton” là động. Thơ có thể là chưa hay nhưng nó có cái thần, cái lời ngộ nghĩnh của đứa trẻ, điều đó dễ hiểu, đó là vấn đề tư tưởng, tầm nhìn này hơi lạ, Rồi còn bài lên đỉnh đèo, tại sao biển như thế vẫn gọi là cái ao, mặc dù cha nói đó là biển, mà vẫn cứ: “Ta lớn mau mau, vượt qua ao lớn”. Thế thì có lý trí gì không? Không chỉ là xúc cảm xuất thần của một đứa bé. Sau này Bác đi năm châu bốn biển: Lịch sử nay đã cho thấy Bác Hồ đi bốn biển thì thấy, năm châu thì chưa thấy. Đến bây giờ không biết Bác có thăm Úc không.

Ta thường nói Bác Hồ đi năm châu bốn biển, theo lịch sử ghi thì Bác mới chỉ đến bốn Châu thôi. Tôi nói:

Thưa, Bác Hồ đến Sitnây tháng 11-1913, đi với cụ Đào Nhật Vinh, hiện nay cụ Vinh ở số nhà 13 đường Nguyễn An Ninh, gần chợ Bến Thành.

Tôi nói với Bác Đồng năm đó cụ Đào Nhật Vinh đang sống. Sau giải phóng miền Nam, tôi vào Sài Gòn sưu tầm tài liệu về Bác Hồ thì Dược sư Hồ Thị Tường Vân, con gái cụ Hồ Tá Bang giới thiệu gặp cụ Đào Nhật Vinh, người ở huyện Trực Ninh, Nam Định, xuống tàu năm 1912 (Bác Hồ năm 1911), cụ Đào Nhật Vinh gặp Bác Hồ ở tận Nam Mỹ, Achentina, sau này gặp (Bác) ở Đaka, Sênêgan, đến đầu năm 1917 gặp lại Nguyễn Tất Thành cuối đại chiến thứ nhất, Vì sau đó ông không đi tàu nữa mà lên Boócđô, lấy vợ đầm. Sau này ông lại lấy một bà Việt Nam. Nếu cụ (Vinh) kể không thì không ổn, không đủ để tin số ảnh cụ chụp với Bác Hồ năm 1946 ở Pari khi Bác là thượng khách thăm chính thức nước Pháp (lúc đó cụ đang ở Pháp mở Hotel ở Boócđô).

Gặp cụ Vinh tôi mới cung cấp một số tư liệu với bác Đồng. Bởi vì viết về Bác Hồ, chúng ta chẳng có mấy ai nghiên cứu về Bác đi đến tận nơi tận chốn Bác sống, hoạt động để tìm tòi tra cứu cả, báo chí nước ngoài họ viết thế nào thì ta chép lại, Đảng ta chưa bao giờ bỏ ra một số tiền cung cấp cho những người có tâm huyết thật sự đi lần theo dấu viết Bác. Đã có ông nhà báo Mạnh Việt ở báo Tiền Phong thành tâm xung phong đi, nhà nước chỉ cấp cho một cái giấy phép thôi, còn đi đến đâu ông nhờ đồng bào, mà đến nay vẫn chưa có chuyến đi nào cả. Ngay cả việc quan hệ giữa nhà nước ta với nhà nước khác cũng chỉ trao đổi công văn đi lại, cũng chưa có người đến. Chỉ đến khi anh Hồng Hà lúc đó là phóng viên Báo Nhân Dân đi sang hội nghị Pari với Lê Đức Thọ, nhân tiện ở đó nghiên cứu (về Bác) ở Pháp, rồi sanh Anh, thế thôi; chứ thực sự để hẳn người nghiên cứu về Bác Hồ thì không có. Vì vậy, nó cứ thất thoát đi. Bên ngoài người ta cứ tiếp tục gửi về rất nhiều (tư liệu).

Hai bài thơ ấy giúp bác Đồng hiểu thêm về Bác Hồ, về sự manh nha của một thiên tài. Thiên tài không phải tự nhiên xuất hiện, mà cả một quá trình, mà đây là giai đoạn manh nha. Cuối buổi gặp bác Đồng mới nói về ý định của bác.

– Tôi nghe đồng chí bị thương ở mặt trận bề, khó khăn lắm!? Anh em xuống nhà (anh) nói đồng chí ở chật chội lắm! Tôi có trao đổi với anh em để lo cho đồng chí một chỗ ở, để đồng chí đỡ vất vả…

– Thưa Thủ tướng, cảm ơn Thủ tướng. Bây giờ Thủ tướng cho tôi căn hộ, Thủ tướng mang tiếng, tôi cũng mang tiếng. Bởi lẽ tôi trẻ trung làm được công việc đột xuất mà Thủ tướng thưởng thì không ai nói. Thủ tướng là người lãnh trọng trách lo cho cả đất nước. Một người đột xuất như Đặng Thái Sơn chẳng hạn, làm cái việc được giải thưởng Sôpanh, người châu Á đầu tiên được giải, thì Thủ tướng cho một căn hộ, để Đặng Thái Sơn đón bố là Đặng Đình Hưng về ở, anh Hưng bị cái án “Nhân Vân Giai phẩm”, bây giờ khổ quá, nay con ông làm được cái việc vinh quang đó. Thủ tướng cho một căn nhà. Ai cũng quý cả, quý tấm lòng của Thủ tướng, quý lòng hiếu thảo của người con đối với cha, như thế là đẹp.

Tôi là người tham gia cách mạng sớm, ra đi vào chiến trường B, trả lại căn hộ tiện nghi ở số nhà 58 Nam Đồng cho phòng quản lý nhà đất quận Đống Đa. Nay trở về, đòi không được. Thuê một chỗ khác cũng không được. Tôi biết cái nhà đó…thì to tiền lắm. Bây giờ họ bán đồ điện. Nhà tôi đòi không được, giờ tôi lại lên đây, tôi không xin (nhà) mà Thủ tướng cho một xuất ở thì tôi mang tiếng, Thủ tướng cũng mang tiếng: Thủ tướng Phạm Văn Đồng thì mang tiếng “ban phát” cho cá nhân người này người kia: còn tôi thì mang tiếng: tưởng ông này thế nào, hoá ra đi nghiên cứu cụ Hồ, viết sách cụ Hồ xong rồi “để xin nhà”.

Dân ta thường nói “Ăn mày nhà quan không sang hơn ăn mày ở chợ”. Tôi cũng nói thực lòng với bác Đồng như thế nên bác rất quý. (Nay thấy anh Trần Tam Giáp, thư ký bác Đồng viết bài để đăng báo Nhân dân ngày giỗ năm Cụ “ra đi”, anh có nhắc đến chi tiết này).

Như thế là đến như bác Phạm Văn Đồng ở gần Bác, một trong những người gần gũi nhất của Bác Hồ như bác Võ Nguyên Giáp, bác Trường Chinh…xưa người ta nói “Tứ trụ” là vậy! Nhưng thời niên thiếu của Bác thì không có điều kiện để tìm hiểu để biết được. Còn tôi có duyên may trong quá trình đi khai khác để sau này viết, trước chỉ nghĩ ghi lại để cung cấp cho đời sau, nhưng sau khi đã có cái “vốn” mới nghĩ đến chuyện “đi buôn xa buôn gần” viết cái này cái khác./

Trịnh Xuyên(Xuân Ba)

Để lại lời nhắn

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.