
48 NĂM VÀ NHỮNG CÂU HỎI NHỨC NHỐI

Từ Thức(Paris)
48 năm!
Gần một nửa thế kỷ trôi qua, vết thương vẫn chưa lành. Và chắc sẽ không bao giờ lành đối với hàng triệu gia đình, trong khi có những người khác, đứng đầu là nhà nước, có cơ hội ‘’hát trên những xác người’’ để ăn mừng chiến thắng. Có cơ hội để khoe khoang, đánh bóng quá khứ, để dân quên thực tại đất nước không có gì đáng kiêu hãnh.
Vài câu hỏi nhức nhối nhiều người đặt ra, hay tự hỏi.
Thứ nhất, có nên tổ chức tưởng niệm ngày 30/4, nửa thế kỷ sau?
Thứ hai, có nên tiếp tục hoạt động chống Cộng, trong khi ‘’càng chống, Cộng sản càng mạnh?’’
Thứ ba, mỗi người, dù chân yếu tay mềm, dù không phải là anh hùng, có thể làm gì, đóng góp gì cho công cuộc chung? (1)
1. CÓ NÊN TƯỞNG NIỆM MỖI NĂM?
Có người nghĩ nửa thế kỷ sau, có lẽ nên quên chuyện cũ, để hướng về tương lai.
Trái lại, muốn chuẩn bị tương lai, phải ôn lại quá khứ.
Một cộng đồng, một dân tộc không có quá khứ, sẽ không biết mình là ai, không biết phải đi ngả nào. Không có quá khứ, sẽ không có hiện tại, không có tương lại. Ôn lại quá khứ, rút tỉa những kinh nghiệm xương máu, để tìm đường đi cho mình và cho thế hệ sau.
Tưởng niệm ngày 30 tháng Tư để không quên hàng trăm ngàn người đã bỏ mạng trên rừng, trên đường mòn biên giới, trên biển cả với hy vọng được sống tự do.
Quốc gia văn minh nào cũng tưởng niệm những người đã hy sinh trong các cuộc chiến tranh Đệ Nhất, Đệ Nhị Thế chiến, hay xa hơn nữa, bởi vì người chết bị quên lãng sẽ chết lần thứ hai.
Forgive, but not forget. Có thể tha thứ, không có thể quên.
Người Việt có phong tục rất hay, là cúng giỗ. Đặt bàn thờ, hương hoa, hay cả thức ăn, không phải là dấu hiệu của mê tín dị đoan, trái lại, là một cách rất văn minh, để chứng tỏ người chết vẫn ở đâu đó, bên cạnh. Người chết không bao giờ thực sự chết.
Ngày 30/4 là ngày giỗ của hàng triệu gia đình.
Người ta hy vọng, nhưng chắc khó toại nguyện, trong khi hàng triệu đồng bào của mình đang khóc những người chết oan, tức tưởi, những người khác, nhất là những người cầm quyền, không nên nhẫn tâm reo hò, nhẩy múa. Đó là một thái độ man rợ nhất.
Dù hăng say chiến thắng tới đâu, vẫn còn 364 ngày mỗi năm, để tha hồ reo hò, mạ lỵ, chửi rủa, đấu tố, oán thù.
Một lý do nữa để tưởng niệm ngày 30/4: nhắc lại cho thế hệ sau những gì đã xẩy ra nửa thế kỷ trước, cho gia đình, cho cha mẹ của họ.
Hàng triệu người đã liều mạng vượt biển, với cái hy vọng mơ hồ là trôi dạt đến một nơi nào đó có tự do.
Bỏ nước ra đi là một chuyện kinh thiên, động địa với một dân tộc gắn liền với đất nước-đất và nước-đa số chưa hề rời làng mạc, khu phố mình đã sinh ra, lớn lên.
Hàng trăm ngàn người bỏ mạng trên biển cả.
Người Cộng Sản, sở trường trong việc viết lại lịch sử, đã bôi nhọ những người ra đi là chạy theo Mỹ, và sau đó, khi cần tiền họ gởi về, thân ái phong cho họ là những ‘’khúc ruột ngàn dặm’’.
Howard Zinn nói ‘’khi những con thỏ chưa có sử gia, lịch sử sẽ được viết bởi những người đi săn’’.
Tưởng niệm ngày 30/4 là nhắc lại sự thực lịch sử. Lịch sử của chiến tranh, lịch sử của một trong những cuộc di cư lánh nạn khủng khiếp, kinh hoàng nhất trong lịch sử nhân loại.
2. CÓ NÊN TIẾP TỤC TRANH ĐẤU CHO TỰ DO?
Nhiều người tự hỏi: có nên tiếp tục tranh đấu chống Cộng hay không, bởi vì nửa thế kỷ sau, Cộng sản vẫn còn đó, hung hăng, tàn bạo? Chưa thấy một hy vọng tự do nào le lói cuối đường hầm.
Điều đó khó chối cãi.
48 năm sau, xã hội Việt Nam băng hoại hơn bao giờ hết.
Biển đảo bị chiếm đóng, môi trường bị huỷ hoại, bất công tràn lan, tham nhũng khủng khiếp, khiến người Việt, sau nửa thế kỷ đất nước thống nhất, ‘’tự do, dân chủ, cộng hoà, độc lập, tự do, hạnh phúc’’, chỉ hy vọng được trốn ra nước ngoài, để lấy chồng, để trồng cần sa, bán dâm, để làm nô lệ.
Trong bối cảnh đó, người Việt hoàn toàn thụ động.
Sau nửa thế kỷ cai trị miền Nam, 3 phần tư thế kỷ miền Bắc, Cộng Sản đã thành công trong công cuộc ‘’thụ nhân’’ (trồng người), đào tạo một thế hệ vô cảm.
Một mặt, sự đàn áp dã man, chà đạp nhân quyền, ngồi xổm trên những quyền tự do tối thiểu của con người, chế độ đã tạo một dân tộc biết sợ. Và trên cả cái sợ, cái cùm tự kiểm duyệt, coi như đó là một nhân sinh quan, một triết lý sống.
Mặt khác, kinh tế phát triển nhờ nhân công rẻ, ngoan ngoãn, trong một thời đại hoàn cầu hoá, nhờ hàng chục tỷ dollars của các ‘’khúc ruột ngàn dặm’’ đổ về, nhờ tiền xuất cảng lao động, xuất cảng phụ nữ, Việt Nam biến thành một xã hội tiêu thụ.
Một số người được tiêu pha, chơi bời thả cửa, có ảo tưởng được tự do, hài lòng với thân phận của mình, chấp nhận hay ủng hộ chế độ. Việt Nam trở thành một nhà tù lộ thiên, trong đó tù nhân không muốn vượt ngục nữa (2)
Trong bối cảnh đó, những phong trào tranh đấu cho tự do, dân chủ yếu dần.
Trong nước, những người tranh đấu bị đàn áp dã man; 10, 15 năm tù, cái án dành cho những người cướp của giết người ở những nước bình thường, chỉ vì đã lên tiếng chống cướp nhà, cướp đất, hay đòi quyền thở, quyền sống.
Ở đây, phải bày tỏ sự khâm phục đối với những người vô danh, hay nổi tiếng, đã can đảm tranh đấu trong hoàn cảnh khắc nghiệt, và nhất là trong sự cô đơn, giữa một biển vô cảm.
Ở hải ngoại, phong trào cũng yếu dần, vì chia rẽ, vì bệnh cá nhân chủ nghĩa, vì cái tôi quá lớn (3), vì tổ chức luộm thuộm, khái niệm rất mơ hồ về dân chủ, rất mơ hồ về sự hữu hiệu của mỗi hành động.
Nhiều người cho cảm tưởng họ chống nhau, hơn là chống Cộng. Sẵn sàng chụp mũ nhau là Cộng Sản, chỉ vì một câu nói vụng về, một câu trích khỏi một bài, trái hẳn với ý của người viết. Đôi khi chỉ vì tỵ hiềm cá nhân, vì ganh ghét, vì độc ác. Trong khi đó, Công Sản gộc, thứ thiệt, ngang nhiên mua nhà cửa, họp hành, ra báo, lập đài phát thanh, truyền hình, lộng hành trước mắt bàn dân, thiên hạ, ngay giữa cộng đồng tỵ nạn.
Nhiều khi những người chống Cộng hăng say chống nhau, quên cả chống Cộng.
Quả thực là tình trạng đáng ngao ngán, khiến nhiều người muốn bỏ cuộc.
Nhưng suy nghĩ lại, có quả thực là các hoạt động có hoàn toàn vô bổ không?
Nếu Việt Nam chưa phải là Bắc Hàn, bởi vì Cộng sản không muốn đóng cửa để mất nguồn ngoại tệ khổng lồ, nhưng cũng bởi vì có những người kiên trì tranh đấu ở hải ngoại, tiếp tay với những người tranh đấu trong nước, lên tiếng tố cáo các chính sách đàn áp, các hành động đàn áp dã man của nhà nước.
Cộng sản chùn tay, không phải vì muốn được kính trọng đôi chút, nhưng bởi vì còn muốn làm ăn, buôn bán với thế giới bên ngoài.
Những hoạt động hải ngoại, dù chưa đạt kết quả mong muốn, dù có nhiều khuyết điểm, vẫn chứng tỏ có những người không bỏ cuộc, nửa thế kỷ sau ngày 30/4/75.
Tại sao không thể bỏ cuộc lúc này. Bởi vì cuộc chiến trở thành một mặt trận văn hoá. Ai cũng nghĩ và mong có thay đổi chính trị ở Việt Nam, bởi vì một nhóm người cai trị gần 100 triệu dân, vô thời hạn, là một chuyện quái đản ở thế kỷ 21.
Nhưng chỉ có thay đổi nếu hội đủ 2 điều kiện.
Thứ nhất, người dân ý thức mình đang sống trong một nhà tù không tường, mặc dù được hưởng những tự do phù phiếm như ăn chơi, tiêu thụ. Thứ hai, mọi người nghĩ những thay đổi sẽ có hậu quả tốt cho chính mình, cho gia đình mình.
Dân chủ đối với đa số vẫn còn là một ý niệm mơ hồ, nếu không phải là đề tài để nhạo báng. Đa số vẫn chưa ý thức rằng tất cả những vấn đề của Việt Nam, từ bất công khủng khiếp, tới tham nhũng kinh hoàng, giáo dục bế tắc sẽ không bao giờ giải quyết được, nếu không có một thể chế dân chủ.
Việc thuyết phục người đồng hương là chuyện của mỗi chúng ta, mỗi ngày.
3. MỖI NGƯỜI CÓ THỂ LÀM GÌ?
Không phải ai cũng là anh hùng, không phải ai cũng là những nhà hoạt động, sẵn sàng hy sinh. Nhưng mọi người đề có thể đóng góp.
Khi tôi gỉải thích cho con cháu lịch sử cận đại của Việt Nam, tôi đóng góp cho việc chống lại âm mưu viết lại lịch sử của tập đoàn cầm quyền
Khi tôi kể cho bạn bè trong nước những sinh hoạt dân chủ nơi tôi đang sống, tôi đóng góp vào việc phát triển ý thức, và kiến thức dân chủ.
Khi tôi liên lạc với các giới chức, các hội đoàn nơi tôi đang sống, hay với những du khách tới Việt Nam, để nói về những vi phạm nhân quyền, tôi đóng góp vào việc cho thế giới bên ngoài biết về thực trạng Việt Nam.
Đó chỉ là những thí dụ. Còn hàng ngàn những chuyện khác, mọi người có thể làm. Nếu một triệu người làm những việc nhỏ, kết quả sẽ rất lớn.
Một câu nói nổi tiếng mà người ta gán cho Lão Tử: Hãy thắp một ngọn nến, còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối. Đôi khi chúng ta quên cả nguyền rủa bóng tối, vì còn say sưa nguyền rủa nhau.
Những khuyết điểm, những sai lầm của những người chống Cộng đã khiến hai chữ ‘’chống Cộng’’ mất dần ý nghĩa
Nhiều người xa lánh, không muốn liên luỵ tới những chuyện đánh phá cá nhân, bè phái.
Albert Camus nói cuộc đời là những cuộc tranh đấu, nếu không tranh đấu cho lẽ phải, không nổi giận trước những bất công, cuộc đời chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Nhưng Camus nói thêm: nổi loạn, hay phẫn nộ phải có đối tượng, không bao giờ mù quáng, vô vạ, miễn phí (la révolte est ciblée, jamais aveugle ni gratuite).
Chống Cộng, nửa thế kỷ sau, không phải vì oán thù, không phải vì bị cướp nhà cướp đất, nhưng bởi vì nghĩ rằng, biết rằng chế độ Cộng Sản đưa tới bế tắc cho dân tộc. Bế tắc và diệt vong.
Tôi chống Cộng bởi vì không muốn nước tôi không có giáo dục, chỉ có nhồi sọ; không có văn hoá, chỉ có tuyên truyền; không có quyền làm người, chỉ có quyền tuân lệnh; không có quyền suy nghĩ, chỉ có quyền ăn chơi.
Hiểu theo nghĩa đó, chống Cộng là một nghĩa vụ trong sáng nhất, khẩn cấp nhất. Không phải là chuyện phù phiếm, như nhiều người nghĩ. Có người thành thực nghĩ như vậy, có người mượn đó là một cái cớ để buông tay, hay đồng loã với cái ác.
TỪ THỨC
Phụ đính
Cách đây 50 năm, khi những tên đao phủ Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Thị Đoan Trinh, Nguyễn Đắc Xuân… chít khăn tang cho hàng vạn công nương Huế trong biến cố Thảm sát Tết Mậu Thân 1968 thì ông “nhạc sĩ màu da cam” Trịnh Công Sơn đã viết 2 bản nhạc về biến cố này là “Bài Ca Dành Cho Những Xác Người” và “Hát Trên Những Xác Người”.
“Xác người nằm trôi sông, phơi trên ruộng đồng
Trên nóc nhà thành phố, trên những đường quanh co.
Xác người nằm bơ vơ, dưới mái hiên chùa.
Trong giáo đường thành phố, trên thềm nhà hoang vu.
Mùa Xuân ơi, xác nuôi thơm cho đất ruộng cày
Việt Nam ơi, xác thêm hơi cho đất ngày mai
Đuờng đi tới, dù chông gai
Thì quanh đây đã có người
Xác người nằm quanh đây, trong mưa lạnh này
Bên xác người già yếu, có xác còn thơ ngây
Xác nào là em tôi, dưới hố hầm này
Trong những vùng lửa cháy, bên những vòng ngô khoai”.
Những ca khúc hát trên những xác người đã đưa đất nước và nhân dân VN đến một mùa Đông băng giá dài suốt 50 năm qua dưới sự thống trị bạo tàn của những người lãnh đạo đảng CSVN. Những lời hát của tên nhạc sĩ màu da cam như những lời ai điếu cho một chế độ đang trên đường tự hủy diệt.
Còn nhớ cách đây mấy năm, một ông tự xưng là “nhà giáo Nguyễn Thượng Long” đã lôi 2 bức ảnh “Hành quyết ở Sài Gòn” với hình cố Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đang chĩa súng vào đầu tên đặc công Nguyễn Văn Lốp và bức ảnh trần truồng chạy trong lửa đỏ của cô bé Phan Thị Kim Phúc của nhiếp ảnh gia Nick Út.
Đây rõ ràng là một bài viết nhằm mục đích đào sâu hận thù cuộc nội chiến, ngoại khiển cách đây 43 năm với những lời thơ rất là cường điệu:
“Anh Giải phóng quân ơi, tên anh đã thành tên đất nước
Tổ Quốc bay lên bát ngát mùa Xuân
Từ dáng đứng của anh trên đường băng Tân Sơn Nhất
Dáng đứng tự hào, dáng đứng Việt Nam…”
Và:
“Vâng đã có một thời lãng mạng như thế, một thời trùng trùng điệp điệp là máu ‘của những con người như thế’” và “… Bởi anh chết rồi, nhưng lòng dũng cảm, vẫn đàng hoàng nổ súng tiến công”.
Bốn mươi ba năm trước, khi theo đoàn quân chiến thắng tiến chiếm “thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng”, nhà văn Dương Thu Hương đã khóc vì chợt nhận ra mình đang đi trên con đường dẫn đến “những thiên đường mù”! Trong khi đó thì ông nhà giáo cầm bút viết văn Nguyễn Thượng Long vẫn chưa nhận ra… “chân lý” này!
Cái mà ông ta gọi là “dáng đứng tự hào, dáng đứng Việt Nam” thì hiện nay đã trở thành “dị dạng”; bởi vì, dù “Quân đội Nhân Dân anh hùng, ngàn lần anh hùng” và vô cùng cường điệu “Bởi anh chết rồi, nhưng lòng dũng cảm, vẫn đàng hoàng nổ súng tiến công”; trong khi đó thì vị Tổng Tư Lệnh “Quân Đội Nhân Dân anh hùng” là Đại Tướng Phùng Quang Thanh thì lại quỳ mọp trước các quan lớn của Trung Cộng thì làm thế nào mà “Quân đội Nhân dân anh hùng” có thể “chết rồi, nhưng lòng dũng cảm, vẫn đàng hoàng nổ súng tiến công”?
Và, ông nhà văn Trần Mạnh Hảo, nghe nói đã từng là cố vấn của cố Thủ Tướng Võ Văn Kiệt hay cựu Thủ Tướng Phan Văn Khải gì đó viết bài “Nhớ Trịnh Công Sơn” ca tụng ông nhạc sĩ màu ca dam này tới tận mây xanh:
“11 năm qua, TCS đã đi vào cõi bất tử. Anh chọn ngày cá tháng tư – ngày nói dối toàn thế giới để ra đi. Hóa ra, tin anh đi khỏi cuộc đời này, về thực chất là một tin bịa đặt. TCS không bao giờ chết khi các ca khúc tuyệt vời của anh còn sống mãi với dân tộc”.
Trong khi đó,thì, trong bài “Trịnh Công Sơn, một loại ký sinh trùng”, trích đoạn trong quyển “TCS, có một thời như thế”, tác giả BB Liêm viết về chuyện TCS tự “ca tụng” chuyện trốn lính của anh ta, như sau:
“… Trốn lính gần như là một cái ‘nghề’ đầy tính chất phiêu lưu của hàng triệu thanh niên miền Nam lúc bấy giờ. Thái độ phản kháng ấy dù nhìn dưới góc độ nào đó còn mang tính thụ động, vẫn còn được nhắc nhở đến như một nốt nhạc trong trẻo đã ngân lên trong một giai đoạn u ám, nhiễm độc, giữa những đô thị miền Nam.”
Và tác giả kết luận:
“Giai đoạn mà TCS cho rằng ‘u ám, nhiều độc tố’ đó, như đã nói trên, chính là giai đoạn mà QLVNCH đang ra sức bảo vệ tự do, no ấm cho 25 triệu đồng bào miền Nam, chống lại cuộc xích hóa của cộng sản Quốc tế mà Hà Nội là tay sai. Trốn lính trong giai đoạn ấy chỉ có những loại người sau đây: hèn nhát, ích kỷ và CS nằm vùng.”
Cho rằng hàng triệu thanh niên miền Nam “trốn lính” vào thời bấy giờ, TCS đã mặc nhiên hòa nhịp theo cung điệu tuyên truyền của các cán bộ CS, loại cán bộ đã huênh hoang “lên lớp” những sĩ quan QLVNCH trong các trại cải tạo rằng: máy bay của ta nấp ở trên mây, đợi lúc máy bay địch xuất hiện thì bất thần ra nghênh chiến.
Các hành động trốn lính là “một nốt nhạc trong trẻo trong giai đoạn u ám nhiễm độc”, TCS muốn minh định rõ “thiên tài âm nhạc họ Trịnh” không thuộc VNCH mà thuộc về “thời đại CHXHCNVN.”
Và, tác giả khẳng định:
“Qua tài liệu sống và tài liệu thành văn, TCS là tổng hợp:
-Một kẻ ích kỷ;
-Một tên hèn nhát trốn lính;
-Một tên nằm vùng;
-Một loại ký sinh trùng;
-Một kẻ phản bội;
-Một tên lừa dối;
-Một tên ăn cơm Quốc gia thờ ma cộng sản”.
Theo Lão Móc, Trịnh Công Sơn là một loại ký sinh trùng là đúng nhất!
Thời sống ở miền Nam trong chế độ Đệ nhị Cộng Hòa, TCS sống ký sinh nhờ vào “máu văn nghệ cải lương võ hiệp Kim Dung” của ông cố Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ và bà Đặng Tuyết Mai. Ông này đã tự xưng mình và vợ mình là “Vô Kỵ, Triệu Minh”!
Ở đâu đó, bà Đặng Tuyết Mai đã từng kể lại là đã từng đàn ca xướng hát với Trịnh Cộng Sơn trong trại Huỳnh Hữu Bạc. Và chính vì chuyện “ký sinh” này mà Trịnh Công Sơn đã phải trả ơn bằng cách sáng tác bài “Hát Cho Người Nằm Xuống” ca tụng cố Đại Tá Không quân Lưu Kim Cương.
Sau khi “nối vòng tay lớn”, TCS lại “sống ký sinh” vào Võ Văn Kiệt khi ông này còn là Bí thư thành ủy tp Sài Gòn. Chính nhà văn VC Nguyễn Quang Sáng đã “khoe” là “chị Sáu” Phan Lương Cầm, vợ Võ Văn Kiệt đã từng khen nhặng sị câu “ngày sau sỏi đá cũng còn có nhau” của Trịnh Công Sơn. Và, Nguyễn Quang Sáng cũng cho biết trong thời kỳ nhân dân đói vêu mõm phải ăn bo bo và khoai mì, “anh Sáu” Võ Văn Kiệt đã gửi gạo tiếp tế cho Trịnh Công Sơn! *
Cách đây khá lâu, nữ ca sĩ Ý Lan đã về hát ở Hà Nội, dư luận đã lên tiếng phản đối. Có người đã làm thơ như sau:
“Em về hát ngọn dao đâm
Tiếng rơi nát vụn những âm thanh buồn
Tháng Tư lầy lội linh hồn
Em xưa dường đã quên trầm hương xưa
Máu luồng tim cạn hết chưa
Em về dao ngọt ngậm ngùi thơ ta!”
Chuyện lạ là tháng Tư những năm sau đó, hai miền Nam, Bắc California người ta lại thấy các chương trình ca hát nhạc Trịnh Cộng Sơn và Phạm Duy lại được tổ chức rầm rộ.
Người ta lại thấy “ông nhà văn từ giã văn đàn bước xuống sân khấu ca tụng hạt lúa đỏ để mưu sinh” dạo nào nay lại sống ký sinh vào 2 ký sinh trùng Trịnh Công Sơn, Phạm Duy.
Không ai trách gì những kẻ
“Gái tơ không biết thù nhà
Bên sông còn hát khúc Hoa Hậu Đình”.
Nhưng với những ông nhà văn đã từng cầm bút và đã từng sống nhờ vào những bài viết chống Cộng của mình thì lại khác!
Đây mới đúng là cái thảm cảnh:
“Tháng Tư hát ngọn dao đâm
Hát trên thân xác Việt Nam héo mòn
Tháng Tư lầy lội linh hồn
Tháng Tư mùa ký sinh trùng… kiếm ăn!”
Có con kên kên nào mà không kiếm ăn trên những xác người?
Cũng như ký sinh trùng thì phải sống ký sinh. Thế thôi! Trách làm gì?
Lão Móc