chuyện xưa tích cũ :ông Tây(có vợ Việt) nói về “tên lái buôn chính trị gốc Do Thái Henry Kissinger”-Huyền Trân BBC

Stephen B. Young: ‘Sự phản bội của Henry Kissinger là nguyên nhân chính khiến Việt Nam Cộng hòa sụp đổ’

Henry Kissinger và Stephen B. Young
Chụp lại hình ảnh,Tác giả Stephen B. Young (trái) và bìa sách ‘Kissinger’s Betrayal: How America Lost the Vietnam War’ vừa được ấn bản

  • Tác giả,Huyền Trân
  • BBC News

Dường như Henry Kissinger đã làm theo câu nói nổi tiếng của sử gia Thucydides, “The strong do what they can, the weak suffer what they must”, tác giả Stephen B. Young bình luận với BBC News Tiếng Việt.

‘Kissinger’s Betrayal: How America Lost the Vietnam War’ là quyển sách mới nhất của tác giả Stephen B. Young cho thấy cách nhà ngoại giao hàng đầu của Mỹ, Henry Kissinger đã phản bội Việt Nam Cộng hòa (VNCH) thế nào qua những thỏa thuận bí mật với Liên Xô, Bắc Việt và Trung Quốc.

Ông Henry Kissinger, 99 tuổi là Ngoại trưởng Mỹ từ năm 1973 đến 1977, và trợ lý cho Tổng thống Mỹ Richard Nixon, sau đó là Tổng thống Gerald Ford trong các vấn đề an ninh quốc gia từ năm 1969 đến tháng 11/1975.

Quyển sách đề cập đến động cơ sâu xa Henry Kissinger, từ sự không tin tưởng vào một chiến thắng cho Mỹ ở Việt Nam ngay từ ban đầu, không xem Việt Nam Cộng hòa có chủ nghĩa dân tộc.

Nguyên nhân gốc rễ là từ ảnh hưởng tư tưởng của Jean Sainteny, Đặc ủy Cộng Hòa Pháp tại Bắc Bộ từ năm 1946 đến 1962, theo Giáo sư Stephen B. Young.

Trả lời phỏng vấn BBC News Tiếng Việt từ Minnesota (Hoa Kỳ) ngày 27/03, cựu phó khoa luật Đại học Harvard cho rằng nền hòa bình mang lại sau Hiệp định Paris ký ngày 27/01/1973 là “không có danh dự” như Tổng thống Nixon từng mong muốn.

Chiến tranh Việt Nam sau 50 năm: 7 lý do vì sao Mỹ thua

Henry Kissinger
Chụp lại hình ảnh,Ông Henry Kissinger, 99 tuổi là Ngoại trưởng Mỹ tại Việt Nam từ năm 1973 đến 1977, và trợ lý cho Tổng thống Mỹ Richard Nixon trong các vấn đề an ninh quốc gia từ năm 1969 đến tháng 11/1975

BBC: Ông có thể nói về quá trình viết sách ‘Kissinger’s Betrayal: How America Lost the Vietnam War’? Có thể nói đây là quyển sách đầu tiên về sự phản bội của Henry Kissinger đối với Việt Nam Cộng hòa?

Giáo sư Stephen B. Young: Đúng như vậy. Mọi chuyện xảy đến với tôi theo một cách tình cờ.

Tôi đã tìm kiếm tài liệu viết quyển sách này trong hơn 40 năm qua. Nhiều câu chuyện, mà tôi có thể nói theo Tiếng Việt, phải gọi là “phước của Trời”.

Tôi có quen biết cựu Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, ông Ellsworth Bunker trong quãng thời gian tôi làm việc tại đó. Bunker về hưu năm 1980, và ông ấy mời tôi cùng gia đình đến thăm quê ông ấy ở Vermont.

Khi đó, Bunker đã kể rất nhiều câu chuyện thú vị về Việt Nam như về Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu… Khi đó tôi đặt câu hỏi cho ông ấy “Ngài Đại sứ, tôi muốn viết sách, người dân Mỹ cần phải biết những câu chuyện này. Đây là những câu chuyện hay, rất thú vị mà lại không ai biết về chúng.” Và rồi ông ấy đồng ý.

Lá thư Henry Kissinger gửi cho Ellsworth Bunker vào ngày 25/05/1971
Chụp lại hình ảnh,Lá thư Henry Kissinger gửi cho Ellsworth Bunker vào ngày 25/05/1971 (phải), có đoạn “On your point VI we will say that peoples of Indochina should discuss this question among themselves but we not set date.” Và một biên bản từ Nhà Trắng vào ngày 25/05/1971, Sainteny và vợ ăn trưa với Henry Kissinger, và Sainteny truyền đi thông điệp từ Hà Nội (trái)

Khi cùng làm việc với nhau, tôi đã có điều kiện tiếp cận với những tài liệu mật của Bunker ở Bộ Ngoại giao Mỹ. Khi nhìn vào một tủ hồ sơ, tôi phát hiện những lá thư mật giữa Ellsworth Bunker và Henry Kissinger.

Và tôi thấy thông điệp rất sốc của Kissinger vào ngày 25/05/1971, mang nội dung nói một cách gián tiếp [indirectly] với Bunker rằng Mỹ sẽ để Hà Nội duy trì hiện diện quân sự ở miền Nam Việt Nam sau hiệp định hòa bình Paris. Nói một cách khác, Kissinger sẽ bỏ rơi những người Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc. Nhưng tôi chỉ có một tài liệu đó.

Vào năm 1971, Đại sứ Bunker không hiểu những gì Kissinger nói, ông ấy vẫn còn nghĩ rằng Kissinger vẫn còn ủng hộ người theo chủ nghĩa dân tộc ở Sài Gòn và do đó, Bunker đã không làm gì.

Và khi tôi đưa bức thư đó cho Bunker xem thì ông ấy rất thất vọng vì nghĩ rằng lẽ ra mình đã phải nhận ra ngay vấn đề vào thời điểm đó.

Chính câu chuyện này đã cho tôi một chỉ dấu cho thấy Kissinger đã có một kế hoạch cá nhân cho cuộc chiến tranh Việt Nam. Và tôi đã dành rất nhiều năm để xem thêm tài liệu khác để viết nên quyển sách này.

Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, ông Ellsworth Bunker
Chụp lại hình ảnh,Ông Ellsworth Bunker là Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Cộng hòa nhiệm kỳ 1967-1973

Tôi cũng tiếp cận Tổng thống Nixon. Kết bạn với Nixon vốn là chuyện không dễ dàng vì tôi phải mất đến 4 đến 5 năm. Lần đầu tôi gặp Nixon là vào khoảng năm 1981. Vào khoảng năm 1989, khi nghĩ ông ấy đã tin tưởng mình, tôi hỏi ông ấy ở New Jersey, “Có phải ông đã ủy quyền cho Henry Kissinger bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa hay không?”, và khi đó ông ấy bị sốc, mặt trắng bệch, ông ấy nói không nên lời. Ông ấy nói mình không biết Kissinger thật sự làm gì vào năm 1971.

Một yếu tố khác là từ quyển sách “Các Cuộc Thương Lượng Lê Đức Thọ – Kissinger Tại Paris” của tác giả Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ, những nhà ngoại giao cùng với ông Lê Đức Thọ trong quá trình đàm phán Hiệp định Paris. Trong quyển sách đó, hai tác giả viết rằng vào cuối tháng Giêng năm 1971, Đại sứ Liên Xô tại Hà Nội có cuộc họp với Thủ tướng Phạm Văn Đồng.

Khi đó Đại sứ Liên Xô cho biết Kissinger vừa mới nói với Đại sứ Liên Xô tại Washington, Anatoly Dobrynin là nước Mỹ sẽ rời khỏi Việt Nam và không bao giờ trở lại, Mỹ sẽ không yêu cầu Hà Nội rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Câu chuyện này trùng khớp với tài liệu mà tôi có được từ tập hồ sơ mật của Bunker.

Rồi sau đó tôi nhớ lại trong quyển tự truyện của Kissinger, ông ấy nêu vào ngày 09/01/1971 đã có cuộc gặp với Đại sứ Liên Xô, Dobrynin ở Washington, và chấm hết.

Đó là tất cả những gì Kissinger viết. Như vậy chúng ta có thể thấy, chi tiết gặp Đại sứ Liên Xô tại Washington từ hai tác giả Việt Nam và tự truyện của Kissinger có sự liên quan với nhau.

Tổng thống Richard Nixon và Ngoại trưởng Henry Kissinger trong cuộc gặp với Đại sứ Liên Xô Anatoly Dobrynin tại Nhà Trắng vào ngày 26/12/1973
Chụp lại hình ảnh,Tổng thống Richard Nixon và Ngoại trưởng Henry Kissinger trong cuộc gặp với Đại sứ Liên Xô Anatoly Dobrynin tại Nhà Trắng vào ngày 26/12/1973

Cách đây hai năm, tôi hỏi một người bạn của tôi ở Moscow, một giáo sư người Nga chuyên về lịch sử Liên Xô gửi cho tôi chi tiết về thông điệp mà Đại sứ Dobrynin gửi cho Moscow về cuộc gặp giữa ông ấy với Kissinger hay không nhưng ông ấy không giúp được.

Nhưng một người bạn khác của tôi từ Đại học Harvard, chuyên nghiên cứu về lịch sử Liên Xô và Nga thì cho biết biên bản cuộc họp ngày 09/01/1971 đó đã được dịch sang Tiếng Anh và giúp tôi có được bản sao biên bản đó, dài khoảng sáu trang, năm trang về chạy đua vũ trang, vũ khí hạt nhân… trang thứ sáu là về Việt Nam.

Và trong biên bản này thì Kissinger đã đề xuất Hà Nội có thể để binh sĩ ở lại miền Nam Việt Nam, lính Mỹ có thể về nhà, chuyện gì xảy ra thì cứ để xảy ra.

Một câu chuyện thứ ba là khi tôi xem tài liệu tại thư Viện Gerald R. Ford ở Michigan, người thủ thư mang cho tôi hai hộp hồ sơ và nói ‘Steve à, tôi nghĩ ông nên xem chúng”.

Và tập hồ sơ có tên là ‘Mr. S file’ và tôi thấy thật thú vị. Khi đó tôi thấy một cái tên Pháp, Jean Sainteny, một nhân vật rất quan trọng trong lịch sử Việt Nam vì là người chọn Hồ Chí Minh vào tháng 03/1946. Và tôi ngỡ ngàng khi đây là hồ sơ về những cuộc trao đổi giữa Henry Kissinger là Jean Sainteny.

Và tôi thấy một biên bản từ Nhà Trắng vào ngày 25/05/1971, Sainteny và vợ ăn trưa với Henry Kissinger, và Sainteny truyền đi thông điệp từ Hà Nội.

Sainteny nói với Kissinger rằng nếu Mỹ đem quân về nước, để Bắc Việt duy trì binh lính tại miền Nam Việt Nam, Hà Nội sẽ ký hiệp ước hòa bình, trao trả tù binh chiến tranh và để Việt Nam Cộng hòa sống thêm hai, ba năm nữa.

Cùng ngày này, 25/05/1971, Kissinger gửi thư đến Bunker, có thể là sau cuộc gặp với Jean Sainteny với nội dung không nói thẳng là Mỹ sẽ không yêu cầu Hà Nội rút quân khỏi miền Nam Việt Nam.

Tổng thống Mỹ Richard Nixon (trái) trong cuộc gặp với Cố vấn An ninh Quốc gia, Henry Kissinger (phải) tại Nhà Trắng, vào ngày 16/09/1972
Chụp lại hình ảnh,Tổng thống Mỹ Richard Nixon (trái) trong cuộc gặp với Cố vấn An ninh Quốc gia Henry Kissinger (phải) tại Nhà Trắng vào ngày 16/09/1972

BBC: Như vậy, Tổng thống Richard Nixon khi đó thật sự đã không biết gì về kế hoạch bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa của Henry Kissinger?

Giáo sư Stephen B. Young: Chúng ta cần phải chính xác ở điểm này. Điều mà Tổng thống Nixon không biết là Kissinger đã đưa ra đề xuất này cho Cộng sản Bắc Việt vào năm 1971.

Trong khoảng năm 1971 và 1972 đã diễn ra những cuộc thương thảo bí mật giữa Kissinger và Lê Đức Thọ. Vào tháng 10/1972, Kissinger đã có một bản thảo về thỏa thuận, không bao gồm điều khoản Hà Nội phải rút quân khỏi Việt Nam Cộng hòa. Rồi sau đó Kissinger đến Sài Gòn và đưa thỏa thuận này cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và ông Thiệu khi đó bị sốc, rất giận dữ, đặt câu hỏi làm sao Mỹ có thể để Bắc Việt để khoảng 250 ngàn binh sĩ ở miền Nam Việt Nam.

Cũng vào năm 1972, sau cuộc phản công ‘Mùa hè đỏ lửa’ và cuối cùng Cộng sản thất bại, Hà Nội dù đã huy động 13-14 sư đoàn ở miền Nam Việt Nam để chống lại những người theo chủ nghĩa dân tộc sau ba cuộc chiến tại Quảng Trị, Kon Tum (Pleiku), An Lộc.

Khi đó Nguyễn Văn Thiệu cảm thấy được tiếp thêm sức mạnh và giờ thì Kissinger nói để quân Bắc Việt ở miền Nam Việt Nam sau tất cả sự hy sinh của miền Nam Việt Nam.

Ông Thiệu đã bác bỏ thỏa thuận và vào thời điểm đó, Nixon biết Kissinger đã làm gì nhưng lại nghĩ chuyện đó xảy ra vào tháng 10/1972. Sau khi Nixon quyết định ném bom Hà Nội, Hải Phòng, Lê Đức Thọ đưa ra thỏa hiệp.

Vào tháng 01/1973, Hiệp định Paris được ký kết, theo đó Hà Nội không phải rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Nhìn lại sự việc, Lê Đức Thọ từng nói đó là điều khoản vô cùng quan trọng cho Hà Nội bởi vì Bắc Việt không quan tâm đến hòa bình vì chỉ muốn chiếm Việt Nam Cộng hòa.

Vì khi Mỹ rút quân về nước, Bắc Việt rõ ràng có thể đưa thêm quân, nhận thêm xe tăng từ Liên Xô… và sau hai năm vào năm 1975, đúng như những gì Hà Nội đã nói với Henry Kissinger, Lê Duẩn đưa ra lệnh tiến hành cuộc tổng tiến công.

Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp chính trị gia người Pháp Jean Sainteny, Đặc ủy Cộng Hòa Pháp tại Bắc Bộ vào tháng 12/1946
Chụp lại hình ảnh,Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp chính trị gia người Pháp Jean Sainteny, Cao ủy Cộng Hòa Pháp tại Bắc Bộ vào năm 1946

BBC: Trong sách, ông viết rằng nguyên nhân sâu xa cho việc Henry Kissinger âm thầm lên kế hoạch bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa vì ngay từ đầu không tin Mỹ có thể chiến thắng trong cuộc chiến và cả từ định kiến bị ảnh hưởng từ chính trị gia người Pháp Jean Sainteny?

Giáo sư Stephen B. Young: Trước hết chúng ta hãy nói về mối quan hệ giữa Jean Sainteny và Henry Kissinger. Người vợ thứ hai của Jean Sainteny, bà Claude Dulong-Sainteny, từng tham gia seminar của Kissinger tại Đại học Harvard khi Kissinger đang theo học tiến sĩ vào 1953.

Và thông qua bà ấy, Kissinger đã quen biết Jean Sainteny.

Vào năm 1966, khi Kissinger tìm cách đạt được thỏa thuận hòa bình giữa Tổng thống Lyndon Johnson với Hà Nội, ông ta đã gặp Sainteny ở Paris. Sự thật này đã được lưu trong các hồ sơ.

Và cũng theo hồi ký của Henry Kissinger, ông ta đã lắng nghe Jean Sainteny về Việt Nam và ông ấy viết Sainteny chỉ nói với mình hai điều.

Thứ nhất, những người theo chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam Cộng hòa là vô giá trị, không thể tạo dựng quốc gia, tham nhũng, không phải là người tốt…

Thứ hai, người Mỹ không bao giờ có thể chiến thắng trong cuộc chiến này khi hậu thuẫn cho những người ở Việt Nam Cộng hòa, vô tổ chức, vô kỷ lục, tham nhũng, lười chiến đấu… Và tôi suy đoán là còn có một ý thứ ba, đó là chỉ có Hồ Chí Minh là người Cộng sản, người Việt Nam tốt.

Chúng ta hãy cùng xem lại lý do tại sao Sainteny tin vào điều này.

Sainteny đã viết quyển sách “Histoire D’une Paix Manquée Indochine 1945-1947”, ông ấy đã viết về người Pháp đã phạm một sai lầm thế nào khi không hậu thuẫn cho Hồ Chí Minh, xem đây ông Hồ là một người Việt Nam tốt đẹp nhất.

Một quyển sách khác được viết vào đầu những năm 1952 mang tên “Viet-Nam Sociologie D’une Guerre” của tác giả Paul Mus, có luận điểm người Việt Nam thật sự là người Trung Quốc, với cụm từ “con rồng nhỏ hơn” (smaller dragon), và nền văn hóa Việt Nam bắt nguồn từ Trung Quốc, và Việt Nam không có chủ nghĩa dân tộc. Sách của Paul Mus nói giới tinh hoa cách mạng của Việt Nam chuyển từ Khổng Tử sang chủ nghĩa Marx.

Cần nói thêm chút về người vợ đầu của Jean Sainteny. Bà ấy là con gái của cựu Toàn quyền Đông Dương vào những năm 1920, cựu Thủ tướng Pháp Albert Sarraut. Chính sách của Albert Sarraut là áp dụng chương trình giáo dục của Pháp cho con cái những gia đình quan lại chuyên học tiếng Hoa. Ý tưởng của Pháp khi đó là chỉ những người được học trường Pháp mới trở thành nhà lãnh đạo tốt được.

Hầu hết giới cai trị thực dân Pháp đều không hiểu về văn hóa Việt Nam, hay nói Tiếng Việt. Không hiểu về người Việt, Jean Sainteny cho rằng Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ… những người hưởng nền giáo dục của Pháp đều học được lý thuyết Marx – Lenin từ Paris.

Jean Sainteny được đưa trở lại Việt Nam vào năm 1945 để với sứ mệnh phục hồi lại sức ảnh hưởng của thực dân Pháp ở Việt Nam, Lào, Campuchia sau Thế chiến lần 2. Khi đó Jean Sainteny không có quân đội Pháp, mà phải hợp tác với lực lượng quân đội Việt Nam.

Trong quyển sách “Histoire D’une Paix Manquée Indochine 1945-1947”, Jean Sainteny viết người duy nhất cùng hợp tác với ông ấy là Hồ Chí Minh. Vua Bảo Đại khi đó cũng không muốn gặp Jean Sainteny.

Câu hỏi đặt ra là tại sao Hồ Chí Minh lại muốn hợp tác với Pháp?

Một lý do là Pháp xem Hồ Chí Minh có hưởng nền giáo dục Phương Tây. Còn Hồ Chí Minh thì cần ai đó chọn ông ấy trở thành lãnh đạo và công nhận chính phủ của ông ấy.

Jean Sainteny sau đó kể câu chuyện này với Henry Kissinger. Và Kissinger thì không có người bạn Việt Nam nào, không nói Tiếng Việt, Kissinger chọn tin vào chính trị gia người Pháp hơn.

Đó là lý do tôi đưa ra lập luận Kissinger đã chọn bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa bởi vì ông ta không biết về con người, văn hóa, những điều tốt đẹp về đất nước này.

Nhà đàm phán Bắc Việt tại Hòa đàm Paris, ông Lê Đức Thọ và Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ,  Henry Kissinger
Chụp lại hình ảnh,Nhà đàm phán Bắc Việt tại Hòa đàm Paris, ông Lê Đức Thọ và Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ Henry Kissinger vào tháng 01/1973

BBC: Tổng thống Nixon từng muốn Hiệp định hòa bình Paris là “Hòa bình trong danh dự” (peace with honor). Sau tất cả những kế hoạch của Henry Kissinger, ông bình luận như thế nào về hiệp định này?

Giáo sư Stephen B. Young: Cụm từ ‘Peace with honor’ là của Tổng thống Nixon. Bầu cử Tổng thống Mỹ năm 1968 có thể thấy rõ hai phe, một phe ủng hộ Việt Nam Cộng hòa, một phe là muốn bỏ rơi.

Nixon và phe Cộng hòa thì muốn giúp VNCH. Phe Dân chủ thì muốn bỏ rơi VNCH.

Nixon thật sự không biết làm sao, vì vậy ông ấy nghĩ ra slogan “peace with honor”, có nghĩa chiến tranh sẽ kết thúc trong danh dự, nhưng điều đó có nghĩa Mỹ sẽ không bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa.

Sau đó vào năm 1969, với sự ảnh hưởng của Đại sứ Bunker, Tổng thống Nixon tiến hành Việt Nam hóa chiến tranh, có nghĩa quân đội Mỹ rút đi còn quân lực Việt Nam Cộng hòa sẽ ngày càng mạnh lên.

Sự phản bội của Kissinger nằm ở chỗ đã mang đến “một nền hòa bình không có danh dự”.

Kissinger mang lại hòa bình theo Hiệp định Paris, Việt Nam Cộng hòa được độc lập, tự do, nhưng tất cả chỉ là trên giấy tờ.

Hà Nội được duy trì binh lính ở miền Nam Việt Nam. Và hai năm sau đó, Hà Nội đã vi phạm hiệp định hòa bình này và Kissinger thừa biết là Bắc Việt sẽ thực hiện điều đó.

Đó là lý do tại sao lại là “nền hòa bình không có danh dự”, bởi vì hiệp ước hòa bình lại không mang lại hòa bình thật sự, chỉ là một ‘sự giả tưởng về hòa bình’ [fiction of peace].

BBC: Ông đánh giá thế nào về tầm quan trọng của sự phản bội của Henry Kissinger trong sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa? Như vậy có thể nói, Việt Nam Cộng hòa đã không tự bại trận như nhiều phân tích và bình luận trước đây?

Giáo sư Stephen B. Young: Các nhân tố quan trọng khác không thể không nhắc đến đó chính là phong trào phản chiến tranh Việt Nam tại Mỹ. Thế nhưng sự phản bội của Henry Kissinger là nguyên nhân chính khiến Việt Nam Cộng hòa sụp đổ.

Bởi vì nếu chúng ta nhìn kỹ vào tình hình quân sự hai phe Nam, Bắc vào thời điểm Hiệp định Paris được ký kết, khi đó văn phòng tình báo tại Đại sứ quán Mỹ ước tính số lính Việt Cộng ở miền Nam Việt Nam là khoảng 25 ngàn người.

Khi đó quân lính Việt Nam Cộng hòa là hơn một triệu. Ở mọi ngôi làng ở Nam Việt Nam không còn bóng dáng Mặt trận Giải phóng Dân tộc gì hết.

Thế rồi Mỹ cắt viện trợ thế là Nguyễn Văn Thiệu và binh sĩ cạn súng, đạn, máy bay, xe tăng… Cùng lúc đó, Liên Xô và Trung Quốc lại bơm vũ khí cho Bắc Việt.

Về Tổng thống Thiệu, một thông tin rất quan trọng là vào tháng 11/1972, Tổng thống Nixon gửi cho ông ấy lá thư riêng, nêu rằng ông Thiệu nên ký Hiệp định Paris, trong trường hợp Hà Nội vi phạm hiệp định thì Nixon sẽ điều máy bay B-52 vào ném bom miền Bắc.

Thế nhưng sau khi ông Nixon từ chức sau vụ bê bối Watergate, người kế nhiệm ông ấy là Gerald Ford (1974 – 1977) lại không thấy mặn mà thực thi nghĩa vụ đó, còn phe Dân chủ trong Quốc hội Mỹ thì lại cắt viện trợ, và thông qua đạo luật có nội dung vị tổng thống không thể tự mình quyết định cử máy bay B-52 đến Việt Nam.

Như vậy chúng ta có thể thấy tình thế đã xoay chuyển. Lê Duẩn đã đưa ra quyết định vào tháng 01/1975 khi thấy thời cơ đã đến.

Việt Nam Cộng hòa lại không có đủ quân lính chốt chặn tại các vị trí dọc đường ranh giới. Hà Nội có thể tận dụng những điểm yếu đó như Buôn Mê Thuột… huy động hai đến ba sư đoàn chống lại một số lượng binh lính ít ỏi của Nam Việt Nam và chiến thắng.

Nếu Mỹ cử B-52 đến thì có lẽ Việt Nam Cộng hòa vẫn còn sống được. Và chiến tranh Việt Nam cũng là cuộc chiến đầu tiên mà người Mỹ thất bại, để lại những cảm xúc nặng nề, chúng tôi bị mất đi sự kiêu hãnh vì thất bại.

Theo quan điểm của tôi, những hành động của Henry Kissinger là nguyên nhân chính [principal cause] cho sự bại trận của Việt Nam Cộng hòa bởi vì đã tạo sự chuyển biến về thế trận, quyền lực, khiến Việt Nam Cộng hòa bị bất lợi.

Nếu Kissinger vùng lên với nắm đấm, thì khi ấy Việt Nam Cộng hòa còn hơn một triệu binh lính cùng nhuệ khí, nền kinh tế phát triển… trong khi mặt trận giải phóng thì đã rút thì tình hình đã khác.

Một yếu tố khác theo tôi suy đoán, là khi ấy đã có một thỏa thuận hòa bình nên tâm lý của nhiều người Mỹ là chiến tranh đã kết thúc, nước Mỹ không cần làm điều gì nữa.

Nước Mỹ đã không hiểu hết về Việt Nam, về Lê Duẩn hay Lê Đức Thọ… Bắc Việt đã không hứa để giữ lời hứa [They don’t promise to keep promises].

Ông Nguyễn Văn Thiệu và Tổng thống Nixon
Chụp lại hình ảnh,Tổng thống Richard Nixon và Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu trong cuộc gặp tại đảo Midway ở Thái Bình Dương vào năm 1969

BBC: Ông có nghĩ rằng Kissinger là một người yêu nước, chỉ muốn làm điều tốt nhất cho lợi ích quốc gia của nước Mỹ?

Giáo sư Stephen B. Young: Ai đó có thể nghĩ như vậy nhưng tôi thì không.

Đọc rất nhiều về Henry Kissinger và đây là cảm xúc cá nhân của tôi, tôi không có tài liệu minh chứng điều này. Khi tôi kể cho mọi người và khi họ đọc sách của tôi thì đều đặt câu hỏi “Tại sao ông ta lại làm chuyện đó?”, phản bội tổng thống, phản bội đồng minh. Trong lịch sử nước Mỹ, chưa ai từng làm chuyện này.

Tôi nghĩ Kissinger nghĩ mình có phẩm chất vượt trội hơn người khác, Tiếng Anh gọi là ‘grandiosity’, ông ấy nghĩ mình giỏi hơn, thông minh hơn hết thảy những người khác và đã tự quyết định, tự kết luận là Mỹ không thể chiến thắng và nước Mỹ hãy thoát ra khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam.

Tôi nghĩ ông ta là người theo chủ nghĩa hiện thực [realist], phe yếu thì không nên tấn công phe mạnh hơn.

Và như chúng ta cũng thấy trong cuộc chiến Ukraine, Kissinger cũng gợi ý người dân Ukraine nên rút lui vì Nga mạnh hơn. Và xét về phương diện này thì ông ta có suy nghĩ rất giống Lê Duẩn.

Nhà sử gia Thucydides có câu nói nổi tiếng “The strong do what they can, the weak suffer what they must” và dường như Henry Kissinger đã theo câu nói này.

Kissinger đã hành động một mình mà không nói với ai. Ông ta che giấu tài liệu, không trung thực và công khai. Nếu các bạn đọc cuộc trao đổi của ông ta với Nixon trong thời gian 1971 đến 1972 đều được ghi âm lại, đều thấy Kissinger đã không nói đầy đủ với Nixon là mình đang làm gì.

Tôi đã phát hiện các tài liệu mà chưa có nhà sử học nào tìm ra như tôi đã trình bày về quá trình viết sách. Kissinger đều rất khéo chọn từ ngữ, để che giấu dụng ý thật sự của ông ấy.

Điều tôi học được từ Kissinger là khi đọc gì của ông ta thì nên đặt câu hỏi về những gì ông ta không đề cập tới. Bởi vì đối với tôi, đó lại là những ý quan trọng nhất.

Đối với tôi, Kissinger đã lạm dụng quyền lực cùng sự thất bại trong thể chế, khi một người đàn ông tự ra quyết định một mình mà không báo cáo với tổng thống, bộ trưởng quốc phòng, ngoại trưởng, hội đồng an ninh quốc gia, quốc hội vào năm 1971.

Nếu có danh dự, lẽ ra ông ta nói thẳng với tổng thống “tôi nghĩ chúng ta không thể chiến thắng cuộc chiến tranh Việt Nam, chúng ta phải rút quân, 58 ngàn binh sĩ đã bỏ mạng, tôi ủng hộ phong trào phản chiến”, giả sử Nixon không đồng ý thế là Kissinger nộp đơn từ chức.

Thế nhưng Kissinger vẫn trung thành với Nixon về một nền hòa bình với danh dự, để rồi tạo ra một nền hòa bình “không danh dự”.

Ông Ngô Đình Quỳnh kể về cha mẹ ông và cuộc đảo chính tháng 11/1963 ở VNCH

Quân đội Việt Nam Cộng hòa vào năm 1972
Chụp lại hình ảnh,Quân đội Việt Nam Cộng hòa vào năm 1972

BBC: Trong sách ông viết là Thượng Nghị sĩ J. William Fulbright, người ủng hộ phong trào phản chiến, từng nói với Tổng thống Lyndon Johnson là cuộc chiến Việt Nam không có giá trị bởi vì người Việt Nam “không phải dạng của chúng ta” [are not our kind]. Sau tất cả, theo ông thì nước Mỹ vẫn là một đối tác đáng tin cậy?

Giáo sư Stephen B. Young: Nước Mỹ đã bỏ rơi người dân Afghanistan, dựa vào chính sách hay cách thức thương lượng của Kissinger trong chiến tranh Việt Nam.

Hãy tưởng tượng quý vị thương lượng với kẻ thù của bạn mình, sau đó lại bỏ rơi người bạn ấy. Nước Mỹ đã thất bại trong hai cuộc chiến, và bỏ rơi người dân hai lần.

Tôi thành thật có suy nghĩ, và thật khó để phải nói ra điều này.

Đối với những quốc gia châu Á ngày nay lo ngại về sự thống lĩnh của Trung Quốc, hãy đừng quá phụ thuộc vào nước Mỹ [Don’t count on America].

Quốc gia của quý vị phải tự bảo vệ chính mình, quý vị chỉ có thể phụ thuộc Mỹ tới mức độ nào đó mà thôi.

Bởi vì quý vị luôn phải tự đặt câu hỏi là liệu có một Kissinger nào khác nữa hay là không.

‘The Vietnam War’ và khi Đồng Minh tháo chạy

Chiến tranh Việt Nam sau 50 năm: 7 lý do vì sao Mỹ thua

Steve B. Young
Chụp lại hình ảnh,Tác giả Stephen B. Young (phải) khi công tác cho cơ quan USAID ở Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long vào năm 1969

Tác giả Stephen B. Young hiện là Giám đốc Điều hành Caux Round Table for Moral Capitalism. Ông từng làm phó khoa Luật Đại học Harvard, Giáo sư Luật tại Hamline University Law School.

Giáo sư Stephen B. Young từng làm việc cho Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) từ năm 1968-1972, sau đó là Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn. Những năm sau 1975, ông cùng vợ tham gia trợ giúp các thuyền nhân Việt Nam tị nạn tại Mỹ.

Các tác phẩm của Giáo sư Stephen B. Young gồm Kissinger’s Betrayal: How America lost the Vietnam War, The Theory and Practice of Associative Power – CORDS, The Tradition of Human Rights in China and Vietnam, Moral Capitalism, The Way to Moral Capitalism…

Chiến tranh Việt Nam sau 50 năm: 7 lý do vì sao Mỹ thua

  • Mark Shea
  • BBC World Service

29 tháng 3 2023

American soldiers in Vietnam, during the Vietnam War, 1966

Sau Thế chiến thứ hai, không thể chối cãi rằng Hoa Kỳ là cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới và tin rằng quân đội của họ cũng vậy, có sức mạnh toàn năng.

Tuy nhiên, sau ít nhất tám năm chiến đấu, mặc dù đã đổ nhiều nguồn lực tài chính và nhân lực vào cuộc xung đột, Hoa Kỳ đã bị đánh bại bởi quân Bắc Việt và các đồng minh du kích, Việt Cộng.

Nhân kỷ niệm 50 năm ngày Mỹ rút quân (29/3/1973), chúng tôi đặt câu hỏi với hai chuyên gia và học giả về lý do Mỹ thất bại trong Chiến tranh Việt Nam.

Đó là cao trào của Chiến tranh Lạnh, và các cường quốc cộng sản và tư bản đang đối đầu với nhau.

Nước Pháp, bị phá sản bởi Thế chiến thứ hai, đã cố gắng nhưng không giữ được thuộc địa của mình ở Đông Dương, và một hội nghị hòa bình đã chia Việt Nam thành một miền bắc cộng sản và một chính phủ do Hoa Kỳ hậu thuẫn ở miền nam.

Nhưng sự thất bại của Pháp không chấm dứt được cuộc xung đột trong nước, và bị thúc đẩy bởi nỗi sợ hãi rằng nếu toàn bộ Việt Nam trở thành cộng sản thì các nước xung quanh cũng vậy, Hoa Kỳ đã bị lôi vào một cuộc chiến kéo dài một thập kỷ và cướp đi sinh mạng của hàng triệu người.

Vậy làm thế nào mà cường quốc quân sự hàng đầu thế giới này lại thua trong một cuộc chiến trước một lực lượng nổi dậy và một quốc gia mới thành lập ở Đông Nam Á nghèo khó? Đây là những gì hai chuyên gia giải thích.

Sứ mệnh quá lớn
VIETNAM -- 1971: American soldiers jump out of a helicopter during a combat assault near M Tho in the Mekong Delta, South Vietnam
Chụp lại hình ảnh,Vào đỉnh điểm của cuộc xung đột, Hoa Kỳ có hơn 500.000 quân tại Việt Nam

Chắc chắn tiến hành chiến tranh ở phía bên kia của thế giới là một công việc thực sự to lớn.

Vào lúc cao điểm của cuộc chiến, Hoa Kỳ có hơn nửa triệu quân ở Việt Nam.

Chi phí thật đáng kinh ngạc – năm 2008, một báo cáo của Quốc hội Hoa Kỳ ước tính tổng chi phí cho cuộc chiến là 686 tỷ USD (hơn 950 tỷ USD theo tiền hiện nay).

Nhưng Hoa Kỳ đã chi gấp bốn lần con số đó cho Thế chiến thứ hai và đã thắng thế, lại vừa tham gia cuộc chiến đường dài ở Triều Tiên nên không thiếu tự tin.

Tiến sỹ Luke Middup, một chuyên gia về chính sách đối ngoại và quốc phòng của Hoa Kỳ tại Đại học St Andrews ở Anh, nói rằng có một tinh thần lạc quan chung trong những năm đầu của cuộc chiến.

“Đây là một trong những điều thực sự kỳ lạ đánh dấu toàn bộ cuộc chiến tranh Việt Nam,” ông nói với BBC. “Mỹ hoàn toàn nhận thức được những khó khăn – có rất nhiều hoài nghi về việc liệu quân đội Mỹ có thể hoạt động trong môi trường này hay không, tuy nhiên, chính phủ Mỹ cho đến năm 1968 vẫn tự tin rằng cuối cùng họ sẽ giành chiến thắng.”

Tuy nhiên, niềm tin đó sẽ suy yếu – nó đặc biệt bị sứt mẻ bởi cuộc tấn công Tết Mậu Thân của cộng sản vào tháng 1/1968 – và cuối cùng sự thiếu sự hỗ trợ của quốc hội để chi trả cho cuộc chiến đã buộc Hoa Kỳ phải rút quân vào năm 1973.

Tuy nhiên, cả Tiến sỹ Middup và PGS.TS Nguyễn Hoàng Ánh ở Hà Nội, đều đặt câu hỏi liệu quân đội Hoa Kỳ, rốt cuộc, có nên vào Việt Nam hay không.

Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Ánh lớn lên ở miền Bắc Việt Nam trong chiến tranh và trực tiếp trải qua các cuộc ném bom của Hoa Kỳ vào các khu đô thị, và thấy rõ ràng là quân đội Hoa Kỳ chẳng có việc gì trên đất Việt Nam.

“Theo tôi, người Mỹ đã giúp chính quyền Bắc Việt rất nhiều bằng việc đóng ‘vai ác’ nên làm mọi sai lầm của Bắc Việt trong Chiến tranh Việt Nam đều bị quy cho nhu cầu thời chiến và dễ được tha thứ – miễn là họ chiến thắng,” bà nói.

Quân đội Hoa Kỳ không thích hợp với kiểu chiến đấu này
US soldiers patrol a jungle area near the Cambodian border
Chụp lại hình ảnh,Rừng rậm Việt Nam gây khó khăn cho cả hai bên

Các bộ phim Hollywood thường mô tả những người lính trẻ của Hoa Kỳ phải vật lộn để đối phó với môi trường rừng rậm, trong khi quân nổi dậy của Việt Cộng khéo léo len lỏi qua những bụi cây rậm rạp để thực hiện một cuộc tấn công bất ngờ.

Tiến sỹ Middup thừa nhận: “Bất kỳ đội quân quy mô lớn nào cũng sẽ gặp khó khăn khi chiến đấu trong một số môi trường mà Mỹ được yêu cầu tham chiến.

“Có những nơi đó là loại rừng rậm nhất mà bạn có thể tìm thấy ở Đông Nam Á.”

Tuy nhiên, ông nói, sự khác biệt về năng lực giữa hai bên có thể bị phóng đại.

Có một câu truyện hình thành trong cuộc chiến rằng Quân đội Hoa Kỳ không thể đối phó với môi trường này, bằng cách nào đó, Bắc Việt và Việt Cộng thì đã quen rồi – điều này không bao giờ thực sự đúng,” ông nói.

“Quân đội Bắc Việt và Việt Cộng cũng phải vật lộn rất nhiều để chiến đấu trong môi trường này.”

Theo Tiến sỹ Middup, điều quan trọng hơn là chính những người nổi dậy luôn chọn thời gian và địa điểm của trận chiến, và họ có thể rút lui về nơi ẩn náu an toàn bên kia biên giới ở Lào và Campuchia, nơi các lực lượng Hoa Kỳ tthường bị cấm truy đuổi.

Giáo sư Tường Vũ, trưởng khoa Khoa học Chính trị tại Đại học Oregon ở Hoa Kỳ, nói với BBC rằng việc Mỹ tập trung vào đánh du kích Việt Cộng đã dẫn đến thất bại.

“Quân nổi dậy miền Nam sẽ không bao giờ có thể đánh bại Sài Gòn,” ông nói với BBC. Nhưng sai lầm chiến lược này, theo ông, đã cho phép quân chính quy Bắc Việt vào miền nam, và chính những lực lượng thâm nhập này sẽ giành chiến thắng trong cuộc chiến.

Mỹ thua trận trên sân nhà
Protesters at an anti-Vietnam War rally crowd around the reflecting pool at the Washington Monument in Washington, DC, October 21, 1967
Chụp lại hình ảnh,Các cuộc biểu tình phản chiến đã thu hút rất nhiều người tham gia

Chiến tranh Việt Nam thường được gọi là “cuộc chiến truyền hình đầu tiên” và mức độ báo chí đưa tin về cuộc chiến là chưa từng có.

Đến năm 1966, Cơ quan Lưu trữ Quốc gia Hoa Kỳ ước tính rằng 93% gia đình Hoa Kỳ có TV và các thước phim họ đang xem ít bị kiểm duyệt hơn và mang tính trực tiếp hơn so với các cuộc xung đột trước đó.

Đó là lý do tại sao các cuộc giao tranh xung quanh khuôn viên đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân lại có sức ảnh hưởng lớn đến vậy. Khán giả được chứng kiến gần như trực tiếp rằng Việt Cộng có thể đưa cuộc xung đột vào ngay trung tâm của chính quyền miền Nam – và vào phòng khách của công chúng Hoa Kỳ.

Từ năm 1968 trở đi, việc đưa tin phần lớn là bất lợi cho cuộc chiến – hình ảnh những thường dân vô tội bị sát hại, bị thương và bị tra tấn được chiếu trên TV và báo chí khiến nhiều người Mỹ kinh hoàng và quay lưng với cuộc chiến.

Một phong trào phản đối lớn nổ ra với các sự kiện lớn trên khắp đất nước.

Anti-Vietnam war protesters knocked down by DC police in 1970
Chụp lại hình ảnh,Chính quyền và người biểu tình thường đụng độ

Tại một cuộc biểu tình như vậy vào ngày 4/5/1970, bốn sinh viên biểu tình ôn hòa tại Đại học Kent State ở Ohio đã bị Vệ binh Quốc gia bắn chết.

“Cuộc thảm sát bang Kent State” chỉ khiến nhiều người phản đối chiến tranh hơn.

Việc bắt buộc thanh niên đi quân dịch, cũng như hình ảnh quan tài của những người lính Hoa Kỳ được đưa về quê nhà, có tác động tai hại đến tinh thần của công chúng – khoảng 58.000 quân nhân Hoa Kỳ đã chết hoặc mất tích trong chiến tranh.

Đối với Giáo sư Tường, đây là một lợi thế lớn cho miền bắc: mặc dù tổn thất của họ lớn hơn nhiều, nhưng nhà nước toàn trị của họ có quyền kiểm soát tuyệt đối đối với truyền thông và độc quyền thông tin.

Ông nói: “Mỹ và Nam Việt Nam không có khả năng và thiện chí định hình dư luận tới mức độ mà Cộng sản có thể làm. Họ có một hệ thống tuyên truyền khổng lồ. Họ đóng cửa biên giới và đàn áp những người bất đồng chính kiến. Bất cứ ai không đồng tình với cuộc chiến đều bị tống vào tù.”

Giáo sư Nguyễn Hoàng Ánh đồng tình rằng: “Mỹ đã thua trong cuộc chiến truyền thông. Bắc Việt hoàn toàn bị cô lập với thế giới nên những việc làm sai trái của chính quyền không bị vạch trần, thế giới chỉ nhìn nhận họ là những người công chính. Nhưng những hình ảnh về sự tàn bạo của nước Mỹ đã lan rộng khắp nơi.”

Mỹ cũng thua trong cuộc chiến giành sự ủng hộ ở Nam VN
A group of South Vietnamese army soldiers and an American soldier with two captured Vietcong suspects.
Chụp lại hình ảnh,Nghi can Việt Cộng bị bắt – GS Vũ Tường ước tính có lẽ 1/3 dân số miền nam có cảm tình với cộng sản

Đây là một cuộc xung đột đặc biệt tàn bạo khi Mỹ sử dụng một loạt vũ khí khủng khiếp.

Việc sử dụng bom napalm (một hóa chất gây cháy ở 2.700C và bám vào bất cứ thứ gì nó chạm vào) và chất độc da cam (một chất hóa học khác được sử dụng để làm rụng lá cây rừng nơi kẻ thù trú ẩn nhưng cũng giết chết mùa màng, gây ra nạn đói) có tác động đặc biệt xấu đến nhận thức của người dân vùng nông thôn Hoa Kỳ.

Các nhiệm vụ “tìm và diệt” đã giết chết vô số thường dân vô tội trong các sự kiện như vụ thảm sát Mỹ Lai năm 1968, nơi binh lính Hoa Kỳ sát hại hàng trăm thường dân Việt Nam – một vụ việc tai tiếng nhất của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam.

Con số dân thường thiệt mạng đã khiến quân đội Mỹ bị người dân địa phương xa lánh – những người không nhất thiết có khuynh hướng ủng hộ Việt Cộng.

Tiến sỹ Middup nói: “Không phải đại đa số người miền Nam Việt Nam đều là những người cộng sản tận tụy – hầu hết họ chỉ muốn tiếp tục cuộc sống và muốn tránh chiến tranh nếu có thể.

Giáo sư Tường đồng tình với quan điểm rằng Hoa Kỳ đã vật lộn để giành được sự ủng hộ.

“Quân đội nước ngoài luôn khó làm hài lòng mọi người – bạn sẽ luôn cho rằng họ không được đặc biệt yêu thích,” ông nói.

Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Ánh phân tích thêm:

“Không chỉ người miền Bắc chống Mỹ mà cả người miền Nam cũng vậy. Những người làm việc trong các cơ quan của Mỹ ở miền Nam, đặc biệt là phụ nữ, rất bị kỳ thị.

“Việc người Mỹ đóng quân tại Việt Nam và chỉ huy quân đội miền Nam Việt Nam khiến tất cả người Việt Nam ghét Mỹ và không tin vào ý tưởng của họ.”

Quân cộng sản có tinh thần tốt hơn
Viet Cong soldiers moving forward under covering fire from a heavy machine gun during the Vietnam War, circa 1968
Chụp lại hình ảnh,Những người lính cộng sản có thể đã có động lực tốt hơn so với người miền Nam Việt Nam và các đồng minh

Tiến sỹ Middup tin rằng nói chung, những người chọn chiến đấu theo phe cộng sản đã cam kết giành chiến thắng mạnh mẽ hơn so với những người được gọi đi quân dịch để chiến đấu theo phe miền Nam Việt Nam.

Ông nói: “Có những nghiên cứu mà Hoa Kỳ thực hiện trong Chiến tranh Việt Nam xác nhận đã có rất nhiều các cuộc thẩm vấn các tù nhân cộng sản.

“Cả bộ quốc phòng Hoa Kỳ và tập đoàn Rand (một think tank liên kết với quân đội Hoa Kỳ) đã đưa ra những nghiên cứu về yếu tố động cơ và tinh thần này nhằm tìm hiểu lý do tại sao Bắc Việt và Việt Cộng chiến đấu, và kết luận mà tất cả các nhà nghiên cứu nhất trí đưa ra là họ có động lực bởi vì họ coi những gì họ đang làm là yêu nước, tức là thống nhất đất nước dưới một chính phủ duy nhất.”

Khả năng tiếp tục chiến đấu của quân đội cộng sản bất chấp số lượng thương vong rất lớn có lẽ cũng là bằng chứng về sức mạnh tinh thần của họ.

Giới lãnh đạo Hoa Kỳ đã bị ám ảnh bởi ý tưởng đếm xác chết, nếu họ có thể tiêu diệt kẻ thù nhanh hơn số quân đó có thể được thay thế, quân cộng sản sẽ mất ý chí chiến đấu.

Khoảng 1.100.000 lính Bắc Việt và Việt Cộng đã thiệt mạng trong chiến tranh, nhưng cộng sản dường như có thể thay thế số tử trận đó bằng số lính mới cho tới khi kết thúc chiến tranh.

Giáo sư Tường không chắc liệu miền bắc có tinh thần tốt hơn hay không, nhưng thừa nhận rằng sự giáo huấn mà quân đội miền bắc trải qua đã “vũ khí hóa” họ.

“Họ có thể khiến mọi người tin vào chính nghĩa. Nhờ vào hệ thống tuyên truyền và giáo dục, họ có thể biến mọi người thành những viên đạn.”

Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Ánh không đề cập đến việc truyền bá tư tưởng của chính phủ Bắc Việt, nhưng mô tả một sự đồng lòng đáng chú ý ở miền bắc. Mọi người “quyết tâm chống quân Mỹ. Chúng tôi chấp nhận mọi mất mát, đau thương, thậm chí cả sự bất công, với niềm tin rằng chỉ cần chiến tranh kết thúc, mọi thứ sẽ tốt đẹp hơn.

Chính phủ miền Nam Việt Nam không được lòng dân và tham nhũng
After receiving a fresh supply of ammunition and water flown in by helicopter, men of the US 173rd Airborne Brigade continue on a jungle 'Search and Destroy' patrol in Phuc Tuy Province, Vietnam, June 1966.
Chụp lại hình ảnh,Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon tiên đoán miền Nam Việt Nam sẽ thất thủ sau khi quân đội Hoa Kỳ rời đi

Tiến sĩ Middup nhận thấy vấn đề quan trọng mà miền nam phải đối mặt là thiếu uy tín và sự liên kết với cường quốc thuộc địa cũ.

Ông nói: “Sự phân chia giữa Bắc và Nam Việt Nam luôn là giả tạo, do Chiến tranh Lạnh gây ra, không có lý do văn hóa, dân tộc hay ngôn ngữ nào để chia cắt Việt Nam thành hai quốc gia”.

Ông tin rằng miền nam đã bị thống trị bởi một thiểu số tôn giáo – người Công giáo.

Mặc dù nhóm này có lẽ chỉ chiếm 10 đến 15% dân số vào thời điểm đó (Việt Nam đa số theo đạo Phật), nhưng nhiều người trong số này ở miền bắc đã chạy vào miền nam vì sợ bị đàn áp, tạo ra cái mà Tiến sỹ Middup gọi là “một khối quan trọng” trong nền chính trị của Nam Việt Nam. Và những chính trị gia miền Nam này, giống như Tổng thống đầu tiên của miền Nam – Ngô Đình Diệm, có những người bạn Công giáo quyền lực ở Mỹ – những người như Tổng thống John F. Kennedy. Ông Diệm sau đó bị phế truất và bị giết trong một cuộc đảo chính do CIA hậu thuẫn vào năm 1963.

Tiến sỹ Middup nói: “Sự thống trị của một thiểu số tôn giáo này “làm cho nhà nước Nam Việt Nam không được lòng đại đa số dân chúng, những người theo đạo Phật”.

Ông tin rằng điều này đã dẫn đến một cuộc khủng hoảng về tính chính danh, và một chính phủ mà đa số người Việt Nam coi là hàng nhập ngoại, di sản của chủ nghĩa thực dân Pháp, khi nhiều người Công giáo đã chiến đấu với người Pháp.

Tiến sỹ Middup cho biết thêm: “Chính sự hiện diện của nửa triệu lính Mỹ đã nhấn mạnh thực tế rằng chính phủ này đang dựa vào người nước ngoài theo mọi nghĩa có thể hiểu được. Nam Việt Nam chưa bao giờ là một dự án chính trị có thể thuyết phục được một số lượng lớn người dân rằng nó đáng để chiến đấu và hy sinh.”

Ông nói, điều này đặt ra câu hỏi liệu quân đội Hoa Kỳ lẽ ra có nên được đưa đến để hỗ trợ một quốc gia mà ông mô tả là đầy rẫy tham nhũng hay không.

Ông nói: “Từ khi thành lập cho đến khi tan rã, [Việt Nam Cộng hòa] là một nhà nước vô cùng tham nhũng, tình trạng này càng trở nên tồi tệ hơn do khoản viện trợ khổng lồ của Hoa Kỳ từ năm 1960 đến năm 1975 – nó hoàn toàn làm lệch lạc nền kinh tế của miền Nam Việt Nam.

“Về cơ bản, điều đó có nghĩa là không ai có thể có được bất kỳ vị trí nào, dù là dân sự hay quân sự, mà không phải đưa hối lộ.” Ông tin rằng điều này có hậu quả sâu sắc đối với các lực lượng vũ trang.

Ông nói: “Điều này có nghĩa là Hoa Kỳ không bao giờ có thể xây dựng một quân đội Nam Việt Nam đáng tin cậy, có năng lực.

“Và do đó, điều luôn luôn không thể tránh khỏi – và đã được (Tổng thống Hoa Kỳ) Richard Nixon công nhận là không thể tránh khỏi – rằng khi quân đội Hoa Kỳ rời đi vào một thời điểm không xác định trong tương lai, nhà nước Nam Việt Nam sẽ sụp đổ.”

Hoa Kỳ và Nam VN đối mặt với những giới hạn mà miền bắc không gặp phải
Viet Cong soldiers charging the enemy in South Vietnam, 1968.
Chụp lại hình ảnh,Giáo sư Vũ nói Việt Cộng sử dụng chiến thuật tự sát mà đồng minh không bao giờ có thể

Giáo sư Vũ Tường không đồng ý với quan điểm rằng thất bại của miền nam là không thể tránh khỏi, và cảm thấy các nghiên cứu của Mỹ về Việt Nam thường tìm kiếm lời bào chữa.

“Họ muốn đổ lỗi cho ai đó về sự mất mát, và những người dễ đổ lỗi nhất là miền Nam Việt Nam,” ông nói và thêm rằng những lời chỉ trích về tham nhũng và thiên vị người Công giáo đã bị phóng đại trong các báo cáo của Hoa Kỳ.

Ông lập luận: “Có rất nhiều tham nhũng, nhưng không ở mức độ gây ra tổn thất cho cuộc chiến. Nó tạo ra nhiều đơn vị quân đội kém hiệu quả, nhưng nhìn chung, quân đội miền Nam Việt Nam đã chiến đấu rất tốt”.

Vì vậy, Giáo sư Tường tin rằng sẽ tốt hơn nếu miền Nam – vốn đã mất từ 200.000 đến 250.000 quân trong chiến tranh – vẫn chiến đấu hết mình, mặc dù với vũ khí và tiền của Hoa Kỳ.

Two Chinook helicopters hover above a road as they assist in evacuating supplies and soldiers of the South Vietnamese (ARVN) 18th Division and their families from Xuan Loc, Vietnam, mid April, 1975.
Chụp lại hình ảnh,Máy bay trực thăng Hoa Kỳ sơ tán binh lính và thiết bị của Nam Việt Nam

Cuối cùng, đối với Giáo sư Tường, yếu tố quyết định là miền bắc có khả năng duy trì trạng thái chiến tranh tổng lực trong một thời gian rất dài – một nỗ lực tập trung mà miền nam tự do hơn không thể có được.

Bản chất của hệ thống chính trị có nghĩa là công chúng tin vào cuộc chiến và biết ít hơn về thương vong.

Giáo sư Tường nói: “Mỹ và Nam Việt Nam đơn giản là không thể định hình dư luận theo cách mà những người cộng sản có thể làm được.

1971: A tattered American flag flies above firebase LZ Lonely, and is typical of fortified positions used to support ground forces with artillery

“Mặc dù tổn thất lớn về nhân lực, họ vẫn có thể huy động lực lượng,” ông lưu ý, điều đó có nghĩa là các chiến thuật quân sự như tấn công liều chết, ‘biển người’ luôn có ở phía bắc, chứ không phải ở phía nam.”

Ông nói thêm, điều quan trọng là sự hỗ trợ tài chính và quân sự cho miền bắc từ Liên Xô và Trung Quốc đã không dao động như sự hỗ trợ của Hoa Kỳ đối với miền nam.

Đối với Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Ánh, Việt Nam (cũng như Afghanistan) dạy cho chúng ta một bài học quý giá.

Bà nói: “Tất cả các quốc gia nên tự giải quyết vấn đề của mình – những người bên ngoài chỉ nên hỗ trợ”.

“Cá nhân tôi nghĩ lại, nếu người Mỹ ủng hộ Tổng thống Diệm thay vì lật đổ ông ta thì tình hình có thể đã khác. Liệu Việt Nam có trở nên giống Hàn Quốc? Sau này, khi có nhiều thông tin hơn, tôi mới hiểu rằng người Mỹ không hoàn toàn sai, nhưng cách họ tiến hành cuộc chiến khiến đa số người dân Việt Nam không thể chấp nhận được họ.”

Để lại lời nhắn

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.