
NHỮNG Ý NGHĨ RỜI NGÀY 80 TUỔI
05 Tháng Mười 20225:58


- NHỮNG Ý NGHĨ RỜI NGÀY 80 TUỔI
Nguyên Vũ
Thật khó ngỡ tôi có thể sống tới tuổi 80—dù chỉ lả tuổi khai sinh. Cha mẹ cho tôi “mang tiếng khóc bưng đầu mà ra” ngày mồng 6 tháng 10 năm Nhâm Ngọ —tức 13/11/1942—tại Phụng Viện thượng, tục gọi là Me Vừng, quận Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Tuy nhiên, sau ngày cha thoát khỏi những trại tù khổ sai của Việt Cộng, định cư tại tỉnh lỵ Hải Dương hoang tàn, đổ nát, rổi dàn xếp cho mẹ và hai anh em tôi trốn ra đoàn tụ, khi làm giấy thế vì khai sinh hai anh em tôi đều được khai sinh với năm tây lịch, và ngày tháng âm lịch. Ngày sinh trên giấy tờ trở thành 6/10/1942. Bởi thế, từ buổi di dân qua Mỹ, mỗi năm tôi có tới ba sinh nhật. 6/10, 13/11 và một ngày tây lịch nào đó tương ứng với ngày 6/10 âm lịch. Vợ tôi—người tình đầu đời từ trại Bác Ái xóm Cây Quéo, Gia Định 62 năm trước, cũng nguổn cảm hứng của những vần thơ khởi đầu văn nghiệp—thường tăng khẩu phần lương thực với lời chúc “Happy Birthday.”
Tuy nhiên, đúng ngày 6/10 tây lịch Phan Nhật Nam thường điện thoại hay email hỏi thăm. 57 năm ân tình từ mái trưởng Phan Chu Trinh Đà Nẵng, tới những tiệc rượu, niêm vui tao ngộ ở Dục Mỹ, Tây Ninh, Sài Gòn tới Houston, Minneapolis, San Jose, Santa Ana, thấm nghiệm ngọt bùi của cuộc sống vô thường và đạo đức của nghiệp dĩ trời ban—một nhà văn tài danh; với binh nghiệp giật lùi. Niểm vui là bạn còn khoẻ mạnh ghé thăm mỗi dịp trở lại Houston. Riêng tôi, dù đã tự nguyện nhập tịch Mỹ, trau dồi học vấn, đỗ đại khoa như bạc Phan Vọng Húc, thân phụ nhà thơ Phan Lạc Giang Đông tiên đoán tử thập niên 1970, sinh sống tại Mỹ lâu hơn quê cũ gần hai thập niên, du khảo vải ba nước ngoài, kể cả sáu tháng đối tác với Đại Học Nhân Văn TP/HCM, hậu thân trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn cũ, nhưng
Ta vẫn mãi là ta, là Nguyên Vũ
Thuở đất trời khai mở buổi hoang sơ
Chữ Vũ ở đây là “vũ trụ” [Thiều Chửu 140 bộ miên], không phải họ Vũ [bộ chỉ, TC 324, 4 nét]
Về “binh nghiệp,” tôi là một sĩ quan trừ bị suốt gần 12 năm lính, với viễn ảnh “Đại úy trọn đời.” Xuất thân Khóa 16 Trừ Bị Thủ Đức (1963-1964), ngành Pháo Binh, sau hai chính biến 1/11/1963 lật đổ Ngô Đình Diệm, và 30/1/1964, Trung tướng Raymond Nguyễn Khánh “chỉnh lý” Hội Đồng Cách Mạng Quân Sự do Trung Tướng Dương Văn Big Minh và André Trần Văn Đôn cầm đầu. Sĩ quan tiền sát [“Đề Lô”] của Tiểu đoàn 21 Pháo Binh tại Bạc Liêu từ tháng 6/1964; nhưng tác chiến khắp miền Tây Nam bộ. Nhận mặt chiến tranh trên dòng Bảy Hạp, Cà Mau, lưu dấu giày vải ố vàng bùn lầy nước đọng tới Chà Là, Giá Ngựa, Năm Căn, Thới Bình, Hỏa Lựu cùng các tiểu đoàn 2/31, 3/32, 1/33. Những cuộc hành quân đột kích mật khu Việt Cộng [MTDT/GPMN] cùng Đại đội 21 Thám Báo của Lưu Trọng Kiệt. Những cuộc Nhảy Diều Hâu với TĐ 42 BĐQ “Ba Đầu Rằn.” Bị thương và đặc cách mặt trận trong trận Dân Chí 121 (1965) ở Chương Thiện, với Huân Chương Tổng thống Mỹ thứ hai, khi tăng phái cho TĐ 41 BĐQ “Cọp Đen.” Trong thời gian dưỡng thương, bắt đầu viết ký sự chiến tranh trên nhật báo Thời Luận (của Ông Bà Nghiêm Xuân Thiện), như ký sự “Lửa Dạy U Minh,” và truyện ngắn trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Năm, Chọn Lọc; cùng báo quân đội, Tiền Tuyến, Chiến Sĩ Công Hòa, Tiền Phong, phản ánh những vui buốn của Nghiệp Đề Lô cùng đời Những Chiến Sĩ Sình Lầy. Ngọc Hoài Phương, Sao Biển, Huy Phương, Huy Vân, Nguyễn Sĩ Nguyên, Hùng Phong, Tô Ngọc, Tô Kiều Ngân, Hiếu Đệ, Phan Lạc Giang Đông, Du Tử Lê là những bạn thơ văn thân quí.
Cuối năm 1965, tôi thuyên chuyển lên TĐ 232 Pháo Binh ở Ban Mê Thuột. Chứng nghiệm cuộc tranh đấu của Phật Giáo, tăng phái cho Đại đội 23 Thám Báo mở đường tiếp vận Quốc lộ 21 xuống Nha Trang, rồi vào Lạc Thiện, nơi còn di tích biệt điện và bày voi già nua bên bờ hồ; nhưng những phụ nữ Hở Rê [Ê Đê] đã biết xử dụng nịt vú Mỹ, và những lính biệt kích dân vệ Hờ Rê Mỹ bắt đầu bị tiềm cấy tư tưởng tự trị của phong trào FULRO.
Thởi gian này,tôi nhận được văn thư của Bộ Tư Lệnh Quân Đoản IV hỏi ý kiến về việc xuất bản ký sựNhững Chiến Sĩ Sình Lầy mới khởi đăng trên nhật báo Tiền Tuyến. Dĩ nhiên, tôi đồng ý. Tôi đánh giá Trung tướng Đặng Văn Quang là một tướng cầm quân giỏi, đã đưa một số đơn vị của Sư Đoàn 21 như Thám Báo, 42 và 44 Biệt Động Quân lên hàng các đơn vị ưu tú, được ban thưởng huân chương của Tổng thống Liên Bang Mỹ.
Năm 1966, tôi được thuyên chuyểnvề BCH Pháo Binh Quân Đoàn IV, nhưng biệt phái cho Ban Tâm Lý Chiến của Thiếu tá Tuynh. (Sau này mới biết Tướng Quang là anh em cột chèo với Tướng Nguyễn Xuân Trang, Chỉ Huy trưởng BCH Pháo Binh). Được tháp tùng Tướng Quang thị sát mặt trận, thanh tra các đơn vị, tiếp đón các cấp lãnh đạo cao cấp, trong các cơn bão ngầm giành đoạt quyền lực giữa hai phe Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ. Đi tàu thuyền cùng phái đoàn Nguyễn Văn Thiệu thăm làng Hòa Hảo, Châu Đốc, nghe Lương Trọng Tưởng công bố điều kiện hợp tác. Bay tới Chương Thiện chứng kiến Chủ tịch chính phủ của ngưởi nghèo phân phát heo giống tại một Ấp Tân Sinh, rồi trở lại Chương Thiện dự yến tiệc linh đình, trước khi kéo bầy đoàn nội các chiến tranh tới trưởng đá gà. Thú vui đá gà của Thiếu tướng Chủ tịch đã trở thành vũ khí bài Bắc Kỳ của phe Thiệu. Lưu Trọng Kiệt từng chua chát tâm sự bị tử chối pháo binh yểm trợ, vì Thiếu tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Sư Đoản 21, “sợ phá cuộc chơi đá gà” của Kỳ. Tướng Quang cũng tửng tâm sự bị phê phán là chống ngưởi bắc, trong khi Trung úy Huệ, Bí thư, là ngưởi bắc. Và, dĩ nhiên còn tôi, Cũng từng “đem rau muống vào nam diệt thù” cùng gần triệu người khác.
Trong khi đó, văn nghiệp của tôi cũng leo thang. Nhà xuất bản Chọn Lọc ở Sài Gòn xuất bản hai tác phẩm đầu tay của “Nguyên Vũ” [Vũ Trụ Khởi Thủy], tức Đời Pháo thủ [Nghiệp Đề Lô] và tập truyện Những Cái Chết Vô Danh. Sách lập tức được xếp hạng best-seller.
Năm 1966, Trung tướng Quang rời Quân Đoàn IV. Tôi được biệt phái về Ban Tâm Lý Chiến Bộ Chỉ Huy Pháo Binh, phụ trách biên tập đặc san Xuân. Thực hiện chuyến du khảo các đơn vị Pháo binh tại Vùng I Chiến Thuật. Gặp lại một số bạn cũ, kể cả Phạm Văn Đồng ở căn cứ trung đội 105 lỵ Bồng Sơn, Quảng Ngãi. Thời gian này, qua Tô Kiều Ngân và Lê Huy Linh Vũ tôi được tiếp xúc nhiều văn nghệ sĩ như Kim Loan, Thanh Tâm Tuyền, Mai Hương, Phương Hồng Hạnh. v.. v..
Tôi cũng bắt đầu được mời viết truyện dài định kỳ [feuilleton, phơi-ơ-tông], trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Năm (Mây Trên Đỉnh Núi, v.. v..), Chọn Lọc (Trở Về Từ Cõi Chết), nhật báo Tia Sáng (Vòng Tay Lửa, Thềm Địa Ngục), v.. v.., nhất là những báo do Trương Hồng Sơn phụ trách.
Năm 1967, giữa lúc chính phủ Johnson bắt đầu tìm cách giải quyết cuộc chiến, khai sinh nền Đệ Nhị Cộng Hòa, tôi được sang Nhảy Dù, theo đơn xin. Nhưng vừa mãn khóa dù vào tháng 11/1967, nhận tin mừng được giải ngũ sau bốn năm quân vụ của sĩ quan trừ bị. Nào ngờ tiệc Rửa Mồ Hôi Lính chỉ kéo dài 100 ngày, đủ để ghi danh nhiệm ý Triết Đông. Trận Tổng Công Kích Mậu Thân 1968 khiến tôi bị tái ngũ, trở lại Sư Đoàn Dù, tham dự các chiến dịch giải tỏa Cần Thơ, Sài Gòn rồi Huế như sĩ quan liên lạc Pháo binh cho ba Lữ Đoàn Dù.
Sau chiến dịch phối hợp với Sư Đoàn I Không Kỵ ở Phước Thành, Thiếu Tá Huỳnh Long Phi cho tôi nắm Ban Thông Tin BCH Pháo Binh Dù. Nhân dịp này, tôi quyết định chủ trương nhà xuất bản Đại Ngã, để in sách mình và bằng hữu, như Phan Nhật Nam, Mai Trung Tĩnh, Du Tử Lê, Thảo Trường, Thế Hoài, v.. v… Với sự giúp sức của thi sĩ Điền Bích và họa sĩ Phan Ngọc Diên, v.. v.. Đại Ngã còn nuôi tham vọng đi vào thị trường tiếng Anh/Mỹ. Tác phẩm đầu tay là Back From Hell [Trở Về Từ Cõi Chết]. Ngoài ra, Trần Nhã dịch Đêm Hưu Chiến [The Night of the Cease-Fire] đăng hàng ngày trên Saigon Post [Bưu Điện Sài Gòn].
Tuy nhiên, những ngày vui qua mau. Tổng thống Nixon quyết định triệt thoái khỏi miền Nam Việt Nam “trong danh dự.” Những cuộc đi đêm của Henry Kissinger với giới tình báo Pháp, Pakistan, Tàu, Nga mở đường cho chính sách Việt Nam Hóa chiến tranh. Sau chiến dịch Lam Sơn 719 tại Hạ Lào đầu năm 1971, tôi đã nhận hiểu ngày tàn của VNCH sắp điểm. Quyết định ra tranh cử Hạ Viện để quạt hồng lứa chiến đấu, bảo vệ thành trì cuối cùng của nền dân chủ hiến định, và tự do cần thiết như khí trởi. Nhưng thất cử, dù được sự ủng hộ của rất nhiều giai tầng xã hội—từ những người lính dũng cảm như Thượng sĩ Ngữ, cán bộ xây dựng nông thôn, giới văn nghệ sĩ báo chí Ngô Tỵ, Trọng Nguyên, đạo diễn điện ảnh Bùi Sơn Duân, chủ nhà xuất bàn Khai Trí, Sống Mới, v.. v… nồng nhiệt tiếp giúp. Ân tình khó quên nhất từ nhóm học trò cũ mến yêu như Lệ Hải, Chung, Đông. Nhưng thất cử, dĩ nhiên. Anh Bùi Đức Lạc, Tiểu Đoàn trưởng TĐ 1 PB Dù, đưa tôi lên trình diện Trung tướng Dư Quốc Đống, và được chấp thuận thuyên chuyển về Cục Chính Huấn, vì “Nhảy Dù không lảm chính trị.”
Vừa đáo nhậm nhiệm sở, Lê Duẩn và Bộ Chính Trị Đảng CSVN tung ra chiến dịch Xuân-Hè 1972, để đáp lễ chuyến công du Bắc Kinh của Nixon. Tôi tham gia những cuộc diễn thuyết của Cục Chính Huấn vể chiến thuật phỏng thủ lưu động. Nhưng một tai nạn bất ngờ xảy ra. Một dân biểu gốc chụp hình ở Quảng Đức mật báo tôi nhục mạ Tổng thống Thiệu trong một bàn rượu là hèn nhát, chấp thuận ký Hiệp Định Paris. Tháng 10/1972, sau khi tái chiếm Quảng Trị, tôi mới ra khỏi Cục AnNinh Quân Đội với lệnh cấm hành nghề văn sĩ, ký giả, không đước giữ chức vụ chỉ huy, sĩ quan an ninh theo dõi báo cáo hàng tháng.
Tôi bị thuyên chuyển ra Sư đoàn 3 của Thiếu tướng NguyễnVăn Hinh. Được giữ ở Ban Báo Chí, phụ trách chương trình truyền hình trên đài Huế trong giai đoạn lấn đất giành dân. Sau quyết định đánh chiếm miền Nam bằng quân sự của Hà Nội, tôi bị thuyên chuyền lên Quân Khu II ở Pleiku. Nhờ Phạm Huấn giúp đỡ, tôi được phục vụ tại Bình Định, một tính duyên hải. Dễ tìm được tàu thuyền thoát thân. Nhờ Trung tá Y Sĩ Vũ Đình Lan, tôi tạm ẩn thân trong quân y viện Duy Tân tới đầu tháng 3/1975 với bệnh Ói Máu.
Tháng 4/1975, cuộc chiến Việt Nam của người Mỹ chấm dứt. Nhờ sự giúp đỡ của một số bạn Không Quân—kể cả cố Chuẩn tướng Tư lệnh Sư Đoàn 5 Không Quân Phan Phụng Tiên, người từng đưa nhóm sĩ quan đảo chính hụt ngày 11/11/1960 sang Nam Vang tị nạn—tôi rời Sài Gòn tối 28/4/1975 ra Côn Sơn, chiều 30/4/1975 xuống tàu qua Guam, rồi tối 9/5/1975 tới Fort Chafee, Arkansas.
Cuộc sống một người tị nạn muốn vươn lên từ đáy thẳm Mỹ không dễ dàng. Sau chín [9] năm trở lại các đại học Mỹ, tháng 12/1984, tốt nghiệp Tiến sĩ sử Thế Giới tỉ đối [world comparative history], với luận án “Political and Social Change in Viet Nam Between 1940 and 1946 [Những Biến Đổi Chính Trị và Xã Hội Việt Nam từ 1940 tới 1946],” tại Đại Học Wisconsin-Madison, dưới sự hướng dẫn của Giảng sư John R W Smail.
Khác với tiểu luận Master’s Degree [Cao học] “The Vietnam War : Won or Lost ? [ Chiến Tranh Việt Nam: Thắng Hay Bại ?]” dưới sự hướng dẫn của Giảng sư Richard D Coy tại Đại Học Wisconson-Eau Claire năm 1977, nghiên cứu thứ hai này dựa trên rất nhiếu tài liệu văn khố Pháp, Mỹ về các phe phái, tác nhân lịch sử Việt Nam. Trong thời gian nghiên cứu ở Pháp năm 1982-1983, rồi 1985-1987, tôi may mắn tìm thấy hơn 100 tài liệu quí hiếm, chưa hề được công bố trên thế giới, giúp tái dựng một giai đoạn lịch sử đáng tin hơn.
A. Nhóm tài liệu thứ nhất liên quan đến “Hồ Chí Minh” và Đảng “Cộng Sản Việt Nam. ”
A1. Hai lá thư xin nhập học trường Thuộc Địa [Ecole coloniale] Pháp, đề ngày 15/9/1911 của “Nguyển Tất Thành, sinh năm 1892 tại Vinh, con Phó bảng [Sous docteur ès lettre] Nguyển Sinh Huy, đã học ba thứ tiếng Pháp, Nho và quốc ngữ.”
Đơn này bị từ chối, vì “Monsieur Thành” không được chính phủ liên bang Đông Dương gửi qua, theo sắc luật năm 1911 Klobukowsky mới ban hành. Tên thực Nguyễn Tất Thành là Nguyễn Sinh Côn,— tức Hồ Chí Minh đã được thêm chân cho rắn từ năm 1945-1946 trong khối sử văn “chiến tranh lạnh đầy sai lầm.”
Có những người vô trách nhiệm và thiếu sự lương thiện trí thức, cho là Nguyễn Thế Anh tìm ra tài liệu xin nhập trường Thuộc Địa. Điều này hoàn toàn không đúng. Nguyễn Thế Anh ngồi bên Vũ Ngự Chiêu, nhưng làm việc trên một tài liệu khác. Từ năm 2008, sử gia Vũ Ngự Chiêu đã nêu rõ trong cuộc phỏng vấn của nhóm Linh mục Lễ, cũng như với Nguyễn Vĩnh Châu trên tờ Hợp Lưu.
A2. Tài liệu thứ hai là văn thư của Hiệu trưởng trường Tây tự Quốc Học ở Huế, thông báo cho tòa Khâm sứ Huế biết trò Nguyễn Sinh Côn, cựu học sinh trường Pháp-Nam Thừa Thiên đã được nhận vào trường Quốc Học từ ngày 7/8/1908—bốn tháng sau ngày xảy ra vụ chống sưu thuế ở Công Lương Huế.
Tài liệu 2: Thư trường Quốc Học
Hiệu trưởng trường Quốc Học Huế thông báo trò Nguyễn Sinh Côn, cựu học sinh trường Pháp-Nam Thừa Thiên, được nhận vào trường Quốc Học từ ngày 7/8/1908. Nguồn: CAOM (Aix), Annam, R1.

A3. Kèm theo hai tài liệu chính này có hồ sơ Nguyễn Sinh [hay Sanh] Huy bị cất chức tri huyện Bình Khê tháng 1/1910, vì say sưa và tàn ác với dân chúng; nên bị tống giam, rồi ngày 19/5/1910 cách tuột làm dân, trôi nổi vào Nam—khiến anh chị em Côn xảy đàn, tan nghé. [Xem Hemery, Trần Văn Giàu & Trần Bạch Đằng, Vàng Trong Lửa] Ngày 18/5/1946, HCM đột ngột công bố sinh nhật chính thức 19/5/1890—mục đích chính là bắt dân chúng treo cờ chào mừng, nhân dịp Linh Mục/Cao Ủy Georges Thierry d’Argenlieu đển thăm Bắc Bộ và thảo luận chuyến qua Pháp sắp tới của HCM. Sinh nhật “19/5” này cũng có thể liên hệ đến vụ Nguyễn Sanh Huy bị án đầy, khiến Nguyễn Sinh Côn phải bỏ trưởng Tây Tự Quốc Học Huế ra đi, làm bồi tàu Đô Đốc Latouche Tréville. Giấc mộng làm quan cho Tây chỉ bị phũ phàng dập tắt sau khi đơn xin đặc cách nhập học trường thuộc địa Paris không được chấp thuận.
A4. Cũng nên đề cập đến tài liệu về Nguyễn Ái Quấc, “Fan Lan” Nguyễn Thị Vịnh, v.. v.. tại Văn Khố Quốc Tế Cộng Sản [do Giáo sư Anatoli Sokolov tặng] và kho SPCE của văn khố hải ngoại Pháp. Tại Trung Tâm Lưu Trữ II ở Sài Gòn, củng có đầy đủ hồ sơ về chuyến đi của Dân biểu Marxist-Stalinist Pháp Maurice Honel năm 1937. Ít ai ngờ, nhưng “Thiếu tá Lang” [Đinh Nho Hàng] sau này thông dịch cho Honel khi Honel sang Đông Dương, hai lần gặp Fan Lan tại nhà Dương Bạch Mai ở Gò Vấp!
Tài liệu về cuộc nhân duyên cách mạng giữa Nguyễn Sinh Côn và Nguyễn Thị Vịmh từ 1931 tới 1937 được cả tài liệu văn khố Pháp và Liên Xô khẳng định. Tôi cũng có cơ hội làm phóng ảnh báo cáo hàng tháng về hoạt động của Fan Lan, cùngvụ nổi loạn 1941 tại miền nam.
A5. Không kém quan trọng là liên hệ “16 chữ vàng” đối tác giữa hai đảng CS Tàu và Việt. Đã công bố tromg Kiện Hay Không Kiện, cũng các biên khảo về chuyển khất thức bí mẫ năm 1950, hay Điện Biên Phủ và Hội Nghị Genève 20-21/7/1950.
Tài liệu 3: Thư Phạm Văn Đồng gửi Chu Ân Lai ngày 14/9/1958

Thư Phạm Văn Đồng gửi Chu Ân Lai ngày 14/9/1958, về vấn đề lãnh hải 12 hải lý Bắc Kinh đã tự áp đặt.ngày 4/9/1958. Tòa án Quốc Tế sẽ quyết định thư này chỉ giới hạn trong lĩnh vực lãnh hải, hay còn có thêm những hứa hẹn khác. [Ngày 23/6/2014, Tổng thư ký tòa Hòa Giải Quốc Tế Hugo H Siblesz đã ghé qua Hà Nội, ký thỏa ước hợp tác cơ bản]
B. Nhóm tài liệu thứ hai liên quan đến giới “không Cộng Sản” Việt Nam, dù khó xếp vào nhóm “chống Cộng.”
Một số tài liệu đáng ghi nhớ liên quan đến gia đình Ngô Đình Khả, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Thục, và vợ chồng Ngô Đình Nhu. Đã được công bố khá đầy đủ trong Các Vua Cuối Nhà Nguyễn, Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng, và Cuộc tranh đấu của Phật Giáo năm 1963.
Nguyễn Đức Quỳnh, tay chân Bình Xuyên, là một thí dụ khác. Tháng 9/1954, Trần Văn Ân đề nghị với Pháp và Bảo Đại đưa ra một Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia có Ân, Quỳnh, v.. v.. để thay Diệm. Con trai Quỳnh sau bị kết án hiếp dâm, nhưng trở thành “thanh niên trừ gian” của Nguyễn Cao Kỳ.
C. Loại tài liệu thứ ba liên quan đến các giai tầng lãnh đạo thời Pháp thuộc, và Việt Nam Cộng Hòa.
D. Loại tài liệt thứ tư liên quan đến nếp sống tôn giáo tại Việt Nam.
Tháng 5/1999, tôi hoàn tất chương trình Tiến sĩ Luật [J.D.] tại Đại học Houston, Law Center. Seminar Paper về công pháp Quốc tế mang tựa “From Embargo to Normalization: The Human Rights Aspects of the U.S.-Vietnamese Relations, 1975-1995,” dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Jordan J Paust.
Niên khóa 2004-2005, tôi được học bổng Fulbright của Bộ Ngoại Giao về Việt Nam nghiên cứu khía cạnh pháp lý của chính sách đổi mới. Cơ quan đối tác là Đại Học Nhân Văn Sài Gỏn. Có cơ hội phỏng vấn nhiều nhân chứng, kể cả Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Vũ Văn Hoè. V..v… Ăn Tết âm lịch ở biên giới Nam Quan, Lạng Sơn. Thăm Cà Mau, Bạc Liêu, Vĩnh Châu, Sóc Trăng, Thất Sơn, Châu Đốc, Cần Thơ, Mỹ Tho. Nhưng không khỏi ngậm ngùi cảm khái: dân nghèo, tham nhũng lan tràn, pháp luật làm vì, trên cơ sở theo voi ăn bã mía. Hiểm họa xâm lược bành trướng của Bắc Kinh ngày thêm hiển lộ.
Trở lại Mỹ, tôi chán nản đến độ cắt liên lạc với các viên chức Fulbright đang tiến hành việc xây dựng Đại học Fulbright tại Việt Nam. Nhà xuất bản sa sút vì khó thoát định mệnh của các cộng đồng di dân khác—đời sống chảy xuôi không ngừng nghỉ như dòng nước dưới chân cầu. Người tị nạn bắt đầu áo gấm về lảng. Cuộc cách mạng truyền thông điện tử khiến sách báo in lỗi thời dần. Trong khi đó, những nanh nọc rắn độc của các bộ máy tuyên truyền ra sức tác hại.
Đầu năm 2008, tôi phải nhập viện vì đột quị kích tim. Nửa phần thân trái bị suy yếu. Không đủ sức đi xa, nên ứa nước mắt đón tin mẹ phải vào nhà thương dưỡng lão, chỉ có thể nhờ vợ tôi đi thăm. Kinh tế gia đình cũng dồn lên bờ vai vợ tôi.
Phần tôi cũng có những biến đổi. Cai rượu, chỉ còn thuốc lá. Liên tục hiệu đính các biên khảo, qua những nghiên cửu hàng ngày, giữa các giấc ngủ đầy mộng mị. Gỉảm thiểu tối đa điện thoại. Nhờ sự trợ giúp kỹ thuật của Đặng Hiền và Phạm Lộc, hoàn thành các bộ Viết Từ Chân Đền Hùng, Nhục Hận Biển Đông Nam Á: Kiện Hay Không Kiện?, và Petrus Key Trương Vĩnh Ký & Cuộc Xâm Lăng Của Pháp.
Năm 2016, mẹ tôi mất, đại thọ 99 tuổi. Đoàn tụ với di cốt cha tại chùa Việt Nam mà vợ chồng tôi thỉnh rước từ Sàui Gỏn sang Mũ năm 2005. Bệnh tật rồi đại dịch Dơi Vũ Hán, tức Covid 19 khiến mỗi năm tôi chỉ bước qua cửa nhà bốn lần khám bác sĩ định kỳ, hay lên xe cứu thương nhập bệnh.
Sinh nhật thứ 80 trên khai sinh. Sẽ có các cháu Hiền, Trình, Lộc từ California qua dự bữa cơm họp mặt gia đình tại Tây Đô.
Điện thoại cho Vũ Thái Khiêm và Vũ Thụy Tường Vi, nhưng hai cháu đang ở tuần lễ thứ bảy lục cá nguyệt mới, không thể về dự. Gần bốn tháng trước, Chủ Nhật, 19/6/2022 [Father Day/Ngày Của Cha],. Khiêm và Vi từ Tyler xuống thăm. Vi mới tốt nghiệp highschool, top 10, được học bổng theo học Đại học. Cháu muốn chọn sinh vật học [biology] làm ngành chính [major field]. Khiêm đã học xong năm thứ hai kỹ sư.
Hai cháu muốn dành cho ông nội món qùa ngạc nhiên. Tới Houston từ chiều qua, nhưng hai cháu ở nhà bà cô Lan Phương, không liên lạc, muốn ông nội bất ngở. Dịp Thanksgiving năm ngoái cũng thế. Khiêm lái xe lên thăm ông nội trong trung tâm dưỡng bệnh Hermann Memorial ở Spring không thông báo trước.
Các cháu lên lầu thắp hương cho hai cố.
Gọi điện thoại cho cô Nga và anh Triệu để các cháu chào hỏi. Anh Triệu bị ung thư mắt, phải xạ trị, rồi hóa trị, không thể tiếp hai cháu.
Chiều, cả nhà đi Sing Sing ăn lẩu. Chống gậy ra đường sau nhiều tháng tự cô lập trong nhà vì đại dịch Dơi Vũ Hán [Covid 19].
Tác giả và 2 cháu nội Vũ Thái Khiêm và Vũ Thụy Tường Vi
– Houston 2022
Thứ Hai, 20/6/2022, hai cháu tới nhà hàn huyên với ông nội. Chụp hình, hỏi han về người thân trong đại gia đình.
Cho các cháu biết Tổ chi húy là Vũ Pháp Chiểu, tự Minh Đức. Không rõ có liên hệ gì với Kinh lược Vũ Hồn đời Đường hay chăng. Chỉ biết là con thứ ba Tổ Vũ Đình Thoan. Kết hôn với bà Vũ Thị Sánh; hạ sinh được sáu trai, hai gái. Cố các cháu, Vũ Ngự Thủy (1918-1979),, đứng thứ 5. Kết hôn với Cố bà Phạm Thị Dự (1918-2016), con gái cụ Phạm Chi Lang, dòng giõi nguyên tổng thống quân vụ tây bắc Bắc Kỳ Phạm Chi Hương trong thập niên 1860-1870. Hạ sinh ba trai, Vũ Ngự Triệu, Vũ Ngự Chiêu, Vũ Ngự Hùng (chết sớm) và ba gái, Vũ Thị Lan Phương, Vũ Thị Loan Phượng, Vũ Thị Hằng Nga.
Hiện đền thờ tổ ở thôn Me Vừng, xã Phụng Viện thượng, quận Bình Giang, Hải Dương—mới được trùng tu sau ngày đổi mới, mở cửa. Những chữ khắc tại đền tổ chi cần suy ngẫm lả Phúc, Lai. Thành, và Truy Niệm Tiền Ân.
Cốt lõi lời tổ huấn: học hành sao cho nên Người—chữ Người viết hoa. Người tử tế trong đời sống, hữu dụng cho đất nước, nhân loại. Điều thiện nhỏ vẫn làm, điều ác nhỏ quyết tránh. Thắng không kiêu, bại không nản. Cố gắng cái thiện bản thân—hôm nay làm tốt hơn hôm qua, ngày mai tốt hơn hôm nay [nhật tân, hựu nhật tân]. Đi hai chân mà không trườn bò trên mặt đất, nụ cười trên môi.
Tặng Khiêm mấy chai rượu các cháu tặng nhiều năm qua. Nhưng nhắc đi nhắc lại lời răn đe: Uống rượu, không lái xe. Lái xe không uống rượu. Đừng quên điều khoản “Three Strikes” của Immigration Law: Có thể mất quyền công dân, trục xuất về nguyên quán nếu ba lần vi phạm hình sự, kể cả lái xe khi say rượu.
Cho Khiêm tập 3, bộ Hận Nhục Biển Đông Nam Á: Kiện hay Không Kiện, do Hợp Lưu ấn hành năm 2016. Nhà thơ Đặng Hiền là bác rể hai cháu, các con trai gái đều học giỏi, thành đạt—nữ trợ tá bác sĩ, luật sư, giáo sư đại học, và sinh viên kỹ sư năm thứ hai như Khiêm.Trong sách nảy có sơ lược tiểu sử cùng các tác phẩm cập nhật năm 2016. Ngày vui qua mau. Thứ Ba, 21/6/2022, ăn cơm trưa ở Vinh Hoa, tiễn hai cháu trở lại Tyler. Có cô Phượng. Phượng hơi gầy hơn trước. Cháu Darwin đã vào chương trình tiến sĩ toán ở Irvine, California. Những lượn sóng sau xô dồn lượn sóng trước—ngàn năm nước chảy, có ngừng đâu.Tuổi già ngày một thu nhỏ lại dưới mái nhà, quanh giường bệnh, gậy chống, xe lăn, xe đẩy, cho đến lúc phai tàn đi, tiễn tích khỏi cõi trần. Chẳng cần gõ bồn mà ca vịnh nhi qui như Trang Chu. Nói chi chút tư tâm phải có danh gì với núi sông, chúa biết mặt, dân nhớ tên, công dân hạng nhất, hạng nhì.
Nguyên Vũ Vũ Ngự Chiêu
Thứ Năm, 6/10/2022 [11/9 Nhâm Dần]: Day 225, Week 33
Cuộc chiến Ukraina bước sang tuần thứ 33. 225 ngày, và 225 đêm. Dù trên thực tế, đã 9 năm 8 tháng,
PUBLICATIONS:
I. HISTORICAL WORKS:
A. Published:
English:
1. Vu Ngu Chieu. “The Other Side of the 1945 Vietnamese Revolution: The Empire of Viet-Nam (April-August 1945).” Journal of Asian Studies, XLV:2 (February 1986), pp. 293-328.
2. Phan Chu Trinh. A Complete Account of the Peasants’ Uprising in the Central Region (1908). Translated from Vietnamese by Peter Baugher and Vu Ngu Chieu. Madison, WI: University of Wisconsin, Center for Southeast Asian Studies, Monograph No.1, 1983 (in print 2009).
3. Vu Ngu Chieu and Nguyen The Anh. Một ngôi trường khác cho Nguyễn Tất Thành / Another School for Young Nguyễn Tất Thành / Une autre école pour le jeune Nguyển Tất Thành. Paris: Van Hoa, 1983.
Other Languages:
1. Vũ Ngự Chiêu. Petrus Key Trương Vĩnh Ký & Cuộc Xâm Lăng Của Pháp [Petrus Key Truong Vinh Ky & The French Invasion]. Fountain Valley, CA: Hợp Lưu, 2019.
2. Vũ Ngự Chiêu & Hoàng Đỗ Vũ. Viết Từ Chân Đền Hùng [Writings From the Hill-Foot of the Hung Temple]. Fountain Valley, CA: Hợp Lưu, 2016.
3. Vũ Ngự Chiêu & Hoàng Đỗ Vũ. Nhục Hận Biển Đông Nam Á: Kiện Hay Không Kiện? [Humiliation and Resentment in the Southeast Asia Sea: To Sue or Not To Sue?], 3 vols. Fountain Valley, CA: Hợp Lưu, 2015-2016.
4. Vũ Ngự Chiêu. Các vua cuối nhà Nguyễn, 1883-1945 [The Last Nguyen Emperors, 1883-1945]. 3 vols. Houston, TX: Van Hoa, 1999-2000 [revised edition forthcoming].
5. Chính Đạo. Mậu Thân 68: Thắng Hay Bại? [The Mau Than Tet Offensive (1968): Won or Lost?]. 3rd rev. ed. Houston: Van Hoa, 1998.
6. Chinh Dao. 55 Ngày & 55 Đêm: Cuộc sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa [55 Days & Nights: The Collapse of the Republic of Vietnam]. 5th rev. ed. Houston, TX: Van Hoa, 1999.
7. Chinh Dao. Từ Pearl Harbor tới New York [From Pearl Harbor to New York]. Houston, TX: Van Hoa, 2002.
8. Chinh Dao. Cuộc thánh chiến chống Cộng [The Anti-Communist Crusade]. Houston, TX: Van Hoa, 2004.
9. Chinh Dao. Việt Nam Niên Biểu, 1939-1975 [Vietnam Chronicle, 1939-1975].
Vols. I-A: 1939-1946, I-B: 1947-1954, I-C: 1955-1963; I-D: 1964-1968 (forthcoming); I-E: 1969-1975 (forthcoming). Houston: Van Hoa: 1993-2001.
Vol. III: Nhân vật chí [Biographical Sketches]. 2nd rev. ed. Houston, TX: Van Hoa, 1997.
10. Chinh Dao. Tôn Giáo và chính trị: Phật Giáo, 1963-1967 [Religions and Politics: Buddhism, 1963-1967]. Houston: Van Hoa, 1994.
11. Chinh Dao. Hồ Chí Minh, 1892-1969: Con người và huyền thoại [Ho Chi Minh, 1892-1969: The Man and His Myths]. 3 vols. Houston: Van Hoa, 1993-1994, 1997.
B. Unpublished Manuscripts:
1. Vu Ngu Chieu, “Mandate of Heavens: Vietnam, 1940-1950.” (Based on my doctoral dissertation, UW-Madison, Dec 1984)
2. Vu Ngu Chieu. “The Vietnam War: Won or Lost?” (Based on my M.A. thesis, UW-Eau Claire, December 1977).
3. Vu Ngu Chieu. “International Crimes Against the Ethnic Vietnamese in Cambodia, 1970-1998.” Paper read at the Vietnam Center, University of Texas Tech, Lubbock, TX, in 1998.
4. Vu Ngu Chieu. “From Embargo to Normalization: The Human Rights Aspects of the U.S.-Vietnamese Relations, 1975-1995,” JD Seminar Paper, 1999, under the supervision of Jordan J Paust, at Univ of Houston, Law Center.
C. LITERARY WORKS:
NGUYÊN VŨ [literally, The Original Universe], the author of thirty (30) essays, short stories and novels in the Vietnamese language, which are in the collections of various American and French libraries, including the U.S. Library of Congress, Cornell Univ. Library, the French National Library, and the Library of Univ. Paris VII.
1. Nguyen Vu. Ngàn Năm Soi Mặt [A Mirror for Thousands of Years]. Houston: Van Hoa, 2002.
2. Nguyen Vu. Paris Xuân 1996 [Paris: Spring of 1996] Houston: Van Hoa, 1997.
3. Nguyen Vu. Một Ngày Có . . . 26 Giờ [A Twenty-Six Hour Day] Houston: Van Hoa, 1996.
4. Nguyen Vu. Xuân Buồn Thảm [The Tragic Spring] Houston: Van Hoa, 1992.
5. Nguyen Vu. Hoạt cảnh chiến tranh [Glimpses of War] Houston: Van Hoa, 1991.
6. Nguyen Vu. Giặc Cờ Đỏ [The Red-Flagged Rebellions], 2 vols. Houston: Van Hoa, 1987-1988.
D. Bản thảo chưa hoàn tất:
Vũ Ngự Chiêu. Ngô Đình Nhu: Chết Khó Nhắm Mắt
Vũ Ngự Chiêu & Hoàng Đỗ Vũ. Việt Sử Chép Theo Lịch Tây