
CHUYỆN TÌNH(HỌC TRÒ) NHÀ THƠ NGUYỄN TẤT NHIÊN

(Đoàn Vi Thượng)
Có thể nói thơ và chuyện tình của Nguyễn Tất Nhiên trở thành một hiện tượng nổi bật tại miền Nam vào những năm đầu thập niên 1970. Ông làm thơ hay – điều đó là hẳn nhiên, nhưng chuyện tình được “rêu rao” trong thơ ông khiến dư luận hết sức chú ý. Nguyễn Tất Nhiên yêu rất thật và thơ ông cũng phản ánh quá thật những tâm tình nóng hổi khi yêu làm cho giới bạn đọc, nhất là học sinh, sinh viên đều có những đồng cảm sâu sắc.Duyên của tình ta con gái Bắc.
Nguyễn Tất Nhiên tên thật là Nguyễn Hoàng Hải, sinh năm 1952, tại Biên Hoà (Đồng Nai). Năm đệ tứ (lớp 9), ông để ý đến một cô bạn học người Bắc, tên Bùi Thị Duyên rất xinh đẹp. Chính vào năm đó, Nguyễn Tất Nhiên bắt đầu làm thơ. Thật đáng kinh ngạc, những bài thơ đầu tay đã có sự cuốn hút lạ thường nên chỉ vài năm sau đó ông đã sớm nổi danh. Với những bài thơ này – chủ yếu viết cho Duyên, Nguyễn Tất Nhiên đã tập hợp in thành tập mang tên “Thiên tai” khi học lớp đệ nhất (lớp 12) và thân hành mang đi bán tại các lớp trong trường.

Khi tập thơ phát hành, Nguyễn Tất Nhiên nổi tiếng ngay, và vì thế ở Biên Hoà, người ta bắt đầu đồn thổi về chuyện tình Duyên – Nhiên khắp nơi. Sau này, Bùi Thị Duyên kể:
– “ Tụi này biết nhau từ hồi nhỏ, lúc đó còn ngây thơ, tôi chưa nghĩ gì, còn Nguyễn Tất Nhiên có nghĩ gì hay không thì tôi không biết. Gặp nhau, biết nhau từ lúc 14 – 15 tuổi. Tôi được Nhiên tặng một quyển thơ mà như anh nói chỉ có 3 bản chính đặc biệt (trong số 100 bản), một cho Nhiên, một bản cho tôi, và một bản cho một người quan trọng nào đó. Tôi biết sự hình thành quyển thơ là từ tôi mà ra chứ không phải không, nhưng thật ra chúng tôi chẳng có gì hết, bạn bè trong lớp ai cũng biết. Dĩ nhiên là tôi rất xúc động vì một quyển thơ viết cho tôi. Nhưng tôi đã gặp và nói với Nguyễn Tất Nhiên rằng mình chỉ là bạn thôi, nếu Nhiên muốn đi xa hơn nữa thì tôi không gặp Nhiên đâu. Sau đó anh ấy cũng công nhận chỉ muốn là bạn, nhưng thật ra nói thế cho qua để mà còn tiếp tục được gặp tôi ”.
Cũng cần được nói thêm, ở Biên Hoà thời ấy có rất nhiều nhà thờ. Là người theo đạo, Bùi Thị Duyên hay đi lễ, và những buổi sáng hay chiều, anh chàng làm thơ si tình Nguyễn Tất Nhiên thường ngồi trong quán cà phê bên đường để ngắm nhìn người đẹp đi ngang qua. Ắt hẳn đã nhận ra tình mình chỉ là đơn phương, thơ của ông viết cho Duyên đa phần là thở than, trách móc, có khi rất… dữ dội.
THÀ NHƯ GIỌT MƯA
Bài thơ đầu tiên ông làm cho Duyên đã có tên là “Khúc tình buồn”, sau đó nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành bản nhạc “Thà như giọt mưa” hầu như ngày nào cũng được phát trên Đài phát thanh Sài Gòn, được giới học sinh, sinh viên mua, chép, chuyền tay nhau với tất cả sự thích thú vốn có cũa tuổi trẻ :
Thà như giọt mưa
Vỡ trên mặt Duyên
Để ta nghe thoáng
Tiếng mưa vội đến
Những giọt run run
Ướt ngọn lông măng
Khiến người trăm năm
Đau khổ ăn năn
Khiến người tên Duyên
Đau khổ ăn năn
Khiến người tên Duyên
Đau khổ muôn niên.
Với cái tên Duyên được “rêu rao” trong ca từ một cách thê thiết như thế, cảm xúc của người nghe như được nhân lên gấp bội, cho nên bản nhạc cũng như tên tuổi của Nguyễn Tất Nhiên nhanh chóng được lan truyền rất rộng rãi. Tiếp sau bản nhạc đó, và ngoài tập thơ “Thiên Tai”, Nguyễn Tất Nhiên còn tiếp tục làm nhiều thơ “ai oán” cho Bùi Thị Duyên. Như bài “Duyên của tình ta con gái Bắc” với những câu… ấn tượng:
………….
Nghe nói em vừa thi rớt Luật
Môi trâm anh tàn héo nụ xa vời
Mắt công nương thầm khép mộng chân trời
Xin tội nghiệp lần đầu em thất vọng!(
Dù thật sự cũng đáng đời em lắm Rớt đi Duyên, rớt để thương người!)
………..

Thế nhưng, dường như trái tim của Bùi Thị Duyên vẫn không hề mềm sũng trước những bài thơ ướt át đó, thậm chí ngược lại đã có nhiều hờn trách từ phía gia đình bà dành cho nhà thơ tài hoa si tình.
Cả dư luận, trong khi thán phục, tìm đọc thơ của Nguyễn Tất Nhiên cũng bắt đầu tỏ ý phê phán ông “độc ác” với người-tình-không-trái-tim Bùi Thị Duyên. Để đến nỗi, khoảng năm 1973, Nguyễn Tất Nhiên thật sự mệt mỏi (chữ của ông hay dùng trong thơ) với cuộc tình tuyệt vọng của mình và làm bài thơ coi như là bài cuối cùng dành cho Duyên, trong đó ông “dũng cảm” tự nhận mình là một “tên quái đản”, là người “cầu danh vọng trên nước mắt người tình” như một tạ lỗi:
Năm năm trời… ta làm tên quái đản
Cầu danh trên nước mắt của người tình
Năm năm trời có nhục có vinh
Có chua, chát, ngọt, bùi, cay, đắng…
Có hai mái đầu chia nhau thù oán
Có thằng ta trút nạn xuốn vai em!
Năm năm trời… có một tên Duyên
Ta ca tụng, rồi chính ta bôi lọ
Tình ta đẹp nhưng tính ta còn nít nhỏ
Nên lỗi lầm đã đục màu sông
Nếu em còn thương mến tuổi mười lăm
Xin nuốt hận mĩm môi cười xí xóa
Hồn ta đẹp nhưng đời ta thảm quá
……….(Tạ lỗi cùng người)
EM HIỀN NHƯ MA SOEUR.
Cũng trong thời kỳ Nguyễn Tất Nhiên học đệ nhất (lớp 12) và xuất bản tập thơ “Thiên tai”, ông có chú ý đến một cô bạn học chung trường khác tên là Nguyễn Thị Minh Thuỷ.
Minh Thuỷ không đẹp bằng Bùi Thị Duyên nhưng cũng xinh xắn, dễ thương, học giỏi nhất trường, có thể nói là tài năng toàn diện, đặc biệt là hết sức dịu dàng. Đã biết chắc rằng tình yêu mình dành cho Duyên là vô vọng, Nguyễn Tất Nhiên tỏ ra săn đón Minh Thuỷ hơn. Vốn có bản tính dịu dàng, Minh Thuỷ không tỏ ra từ chối tình yêu của nhà thơ mà chỉ im lặng nửa nhận nửa không. Cứ mỗi khi tan trường, đang đi bên cạnh cô bạn học, nhác thấy chiếc Honda của Nguyễn Tất Nhiên lạng lại từ xa là Thuỷ vội đẩy bạn ra phía ngoài, còn mình đi bên trong để tránh tiếp xúc trực tiếp. Những lần như thế, thư từ, quà cáp của nhà thơ được cô bạn nhận giúp và sau đó chuyển lại cho Thuỷ.
Bà kể về thời đó:
– “Có lần anh ấy dúi vào tay bạn tôi một cái bọc và nói trước khi phóng xe đi: “Thuốc bổ óc đó, một cho Dung (tên bạn tôi) và một cho Thuỷ, ráng thức để mà học thi”. Tôi cũng cảm động, vui vui một chút. Anh chàng làm thơ mà cũng biết điệu đó chứ”.
Tuy vậy, khi thấy “hiện tượng” mối tình Nhiên – Duyên rộ lên cả trường, cả tỉnh, cả miền Nam, Minh Thuỷ cũng rất dè chừng. Lần nọ, bà quyết định gom hết tất cả quà cáp, thư tình của Nguyễn Tất Nhiên lâu nay gửi cho mình đem đến nhà bạn, nhờ bạn trả lại hết. Sự kiện đó đã làm cho nhà thơ si tình chấn động. Ông viết ngay bài thơ “Kẻ tự đóng đinh tim” cho Minh Thuỷ:
Vì chẳng được cầm tay nhau kể lể
Nên chuyện tình cứ thế, thảm hơn
Chúa cũng cau mày ngắm nỗi cô đơn
Của một kẻ đóng tim mình trên thập giá!
Chiều em đi học về, thơm tóc thả
Áo suông eo trinh bạch cả giáo đường
Ta ngọt ngào gọi khẽ, người đi luôn
Nên lũ thiên thần bỗng nhiên thất chí
Bay xuống trần gian làm thi sĩ
Nâng Thánh Kinh mà hát thơ tình
Có con chiên nào thoáng ngạc nhiên
Rồi lại đắm chìm trong vần nhã nhạc…
Chiều em đi học về, chim trắng bước
Ngang giáo đường nhòe nhoẹt màu vôi phai
Có động lòng xin hãy rút khăn tay
Lau giùm mắt kẻ xương bày trên thánh giá
Là ta đó, em ơi, đang tầm tã
Mưa đầy hồn đau đớn thương thân
Lỡ yêu tín đồ phải chấp nhận gian truân
Phải muối mặt giao du cùng quỷ sứ
Tính nhân hậu đã hồi nào hóa dữ
Chỉ vì em lành lặn quên chàng
Chỉ vì em… gõ nhẹ cửa thiên đàng
Bình thản gửi cho hai hàng bím tóc!
Vì chẳng được ra đường đứng, khóc
Nên hình hài cứ thế, ốm o hơn
Đời không dung đứa tự thị ngông cuồng
Người cũng thế nhìn ta chán ghét
Ta điên đảo, người đâu cần hay biết
Ta té lên té xuống chẳng ai màng
Ta còng lưng gánh bụi giữa hoàng hôn
Người lãnh đạm hất ta rơi vực tối!
Chúa cũng lắc đầu vô phương cứu rỗi
(Cứu rỗi làm gì một thứ nghênh ngang
Cứ nổi cơn đòi Thượng Đế ngang hàng
Đấng Ngàn Tuổi tim già khô độ lượng !)
Ta phải chết cho Nước Trời thịnh vượng
Cho thánh thần chúc phúc bình an
Cho em còn mãi mãi dịu hiền ngoan
Mà hãnh diện có thằng đen đúa
Luôn nhăn nhó mặt mày chê Chúa khó
Nhưng cắn răng không hở miệng trách em!
Trong một bài khác, ông còn trách cụ thể về việc Minh Thuỷ đã từng nhận thư, quà của ông như sau…
…..Ta vẫn nhớ trưa nào em ngồi hát
Ta thèm hôn lên mắt tiểu thư buồn
Ta vẫn ăn năn những lúc đón đường
Em khó chịu mà thư nào cũng nhận!
………..
(Giữa trần gian tuyệt vọng)
Cũng là thơ hờn trách nhưng có gì nhẹ nhàng, đằm thắm hơn chứ không “phẫn uất” như thơ viết cho Bùi Thị Duyên, vì Nguyễn Tất Nhiên đã nhận ra vẻ dịu dàng “Em hiền như ma soeur” của Minh Thuỷ. Phải nói những bài thơ ông viết cho Minh Thuỷ tình tứ, cảm động hơn, dù “chuyện tình” này không ồn ào như với Bùi Thị Duyên. Hình ảnh thắt bính tóc của Minh Thuỷ đi vào thơ ông thơ mộng lắm, ngay cả khi có nguy cơ hai người chia tay:
Em không còn thắt bính
Nuôi dưỡng thời ngây thơ
Anh không còn luýnh quýnh
Giữa sân trường trao thư
………….
Em thường hay mắt liếc
Anh thường ngóng cổ cao
Ngoài đường em bước chậm
Quán chiều anh nôn nao
…….
.Hai năm tình lận đận
Hai đứa cùng xanh xao
Hai năm trời mùa lạnh
Hai đứa cùng hư hao……..
(Hai năm tình lận đận)
Lên đại học, Nguyễn Tất Nhiên vào học Luật khoa, Minh Thuỷ vào Vạn Hạnh, Sài Gòn. Từ đó, hai người hầu như không còn gặp nhau. Thế nhưng, thỉnh thoảng trên báo, ông vẫn có thơ cho Minh Thuỷ, như đoạn thơ dưới đây là một, vẫn da diết lắm:
Trời mưa , không lớn lắm
nhưng đủ ướt đôi đầu !
tình yêu , không đáng lắm
nhưng đủ làm … tiêu nhau !
……………
em tính còn ham chơi
lưng ngoan dòng tóc bính
môi trinh non thích cười
chiều chiều hay giỡn nắng
tình trôị. kệ tình trôi…………
(Thơ Khởi Tự Mê Cuồng)
Thì xin nhẫn nhục cưu mang vợ chồng.
Năm 1975, biến cố đất nước. Chính sự kiện này đã vô tình “đẩy” Nguyễn Tất Nhiên và Minh Thuỷ gặp lại nhau, ấy là khi cả hai cùng trở về Biên Hoà sinh sống. Nguyễn Tất Nhiên đi làm… rẫy ở Long Thành (Đồng Nai), Minh Thuỷ làm nhân viên hợp tác xã ở thành phố. Dường như sự bình lặng của thời kỳ này đã làm “nguội” những sôi nổi bốc đồng của tình yêu tuổi trẻ một thời. Hai người đến với nhau có vẻ thanh thản, hiểu đời hơn. Tình yêu từ đó được nối lại.
Năm 1978, họ chính thức làm đám cưới. Tuy nhiên, với một tâm hồn quá mẫn nhạy, thậm chí hơi khác thường, ngay cả khi chuẩn bị chuyển từ vị trí người tình thành người chồng, Nguyễn Tất Nhiên vẫn có những bài thơ dự cảm rằng mình không xứng với sự dịu dàng, hiền ngoan, với kiểu “con nhà gấm lụa thánh hiền” của Minh Thuỷ. Nghe người ta chúc “trăm năm hạnh phúc” ông cũng lo nghĩ. Ông viết:
“Phu thê nếu đã nợ rồi
Thì tôi đâu ngại ngỏ lời yêu em
Như con chim mới tập chuyền
Bâng khuâng gấm lụa thánh hiền em ra
Mặt trời rực rỡ phương xa
Ở đây hạnh phúc chỉ là đau thương…………
Phu thê nếu đã buộc ràng
Thì xin nhẫn nhục cưu mang vợ chồng
Tôi quanh năm sống hoang đàng
Cũng xin nhỏ lệ hoàn lương, khóc tình”.
(1978 ở Việt Nam)
Với những bài thơ viết cho người vừa thành vợ của mình, dễ thấy Nguyễn Tất Nhiên yêu Minh Thuỷ thật tình – thứ tình yêu không còn ai oán, hờn trách, hơn thua như xưa nữa mà đong đầy mặc cảm, lo lắng, làm như tạng người ông thì chỉ yêu thôi chứ đừng cưới, khi yêu thì “hùng hổ” nhưng khi cưới thì “ăn năn”. Như bài “Uyên ương” cái tựa thơ đã rõ là nói về tình vợ chồng, nhưng sao mà… hoài tiếc, thổn thức với những gì đã qua:
….Có những chiều ta muốn hôn em, rồi khóc
Mùa bình an nào chờ đợi uyên ương?
Nhớ hôm xưa em mảnh khảnh tan trường
Hương trinh khiết ngây ngây chiều nắng lụa
Áo đông phương còn e dè trước gió
Ðôi tà ngoan chưa phỉ sức tung tăng
Bụi trần gian chưa gợn vướng mi cong
Thơ ta sáng theo hồn ta trẻ nhỏ
Nhớ hôm xưa em bình minh thiếu nữ
Môi vô tư chưa bợn nhuốm hơi người
Tay măng tơ chưa vọc nước dòng đời
Tóc bính thảnh thơi chưa phiền khói thuốc
Ta lẽo đẽo theo tình ê ẩm bước
Ðể chiều về nghẹ thấm thía gian nan!
Nhớ hôm xưa em mơ mộng nhẹ nhàng
Hay hát khẻ đôi bài tình man mác
Trang thư nhỏ ép bông hoa, làm dáng
Cài tơ nhung lên tóc mượt, làm duyên
Cười với tình nhưng… tránh vội sang bên
Như thể sợ tình yêu làm lấm áo!
Chim trong tổ biết chi đời giông bão
Em con cưng nào biết tuổi lưu đày……
Với tính cách khác thường của Nguyễn Tất Nhiên như thế, quả nhiên cuộc sống của họ không hạnh phúc lắm, chủ yếu là do “tính nết hoang đàng” cố hữu của Nguyễn Tất Nhiên – như ông thường tự nhận, toàn là “nhẫn nhục cưu mang vợ chồng”. Dù đã có với nhau hai con trai, nhưng hai người thường xuyên có những cuộc “di cư” mỗi người một nơi mỗi khi trong nhà có “giông bão”. Năm 1992, trong một lần Minh Thuỷ dẫn hai con “di cư” như thế thì nghe tin Nguyễn Tất Nhiên đã tự kết liễu đời mình trong một ngôi chùa ở California, Mỹ (họ sang Mỹ từ năm 1978).
Chính Minh Thuỷ cũng không tin ông chọn giải pháp đó dù quá biết tính cách khác thường của ông. Vì những chuyến “di cư” như thế, đối với bà, chỉ là cách để ông “biết điều” hơn với vợ con mà thôi, nhưng than ôi, “chính vì em mà thiên tài chán sống”, ông đã từng cảnh báo như thế trong một bài thơ thời còn độc thân rồi mà.
————————
Đoàn Vị Thượng
Những bài thơ phổ nhạc nổi tiếng tiêu biểu :
–
– Thà Như Giọt Mưa,(Khúc buồn tình) nhạc Phạm Duy
– Em Hiền Như Ma Soeur, nhạc Phạm Duy
– Hai Năm Tình Lận Đận, nhạc Phạm Duy
– Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ, nhạc Phạm Duy
– Trúc Đào, nhạc Anh Bằng
– Vì Tôi Là Linh Mục, nhạc Nguyễn Ðức Quang
Nguồn: https://thanhthuy.me/…/chuyen-tinh-nha-tho-nguyen-tat…/
NGUYỄN TẤT NHIÊN – TỪ THIÊN TAI ĐẾN TÂM DUNG

Nguyễn Lương Vỵ

Xế trưa ngày 06.11.2012, nhà thơ Võ Chân Cửu (vừa mới có chuyến du lịch từ Việt Nam sang Hoa Kỳ) và tôi, đã đến khu nghĩa trang Peek Family, thành phố Wesminster, Nam California, viếng mộ thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên (tên khai sinh là Nguyễn Hoàng Hải). Hướng dẫn hai chúng tôi, là người em ruột của Nhiên – Nguyễn Hoàng Nam, cũng là nhà thơ.
Mộ của Nguyễn Tất Nhiên nằm khá sâu phía trong nghĩa trang, yên ắng, râm mát vì có nhiều bóng cây. Chúng tôi thắp nhang, cắm lên phía đầu mộ, khấn chào Nhiên sau hơn 40 năm xa cách rồi cùng ngồi xuống, xoa tay lên tấm bia xi-măng nằm ngang mặt đất, có ghi tám câu thơ của Nhiên, như là lời nhắn gửi tâm tình của thi sĩ:
Ta phải khổ cho đời ta chết trẻ
Phải ê chề cho tóc bạc với thời gian
Phải đau theo từng hớp rượu tàn
Phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định!
(Vì Thượng Đế từ lâu kiêu hãnh
Cầm trong tay sinh tử muôn loài
Tình ta vừa gánh nặng thấu xương vai
Thì em hỡi, ngai trời ta đạp xuống)
Tôi lặng lẽ nhìn và đọc thầm, chẫm rãi tám câu thơ trên. Trong tâm tôi vang lên một lời tâm tình với bạn: “Nhiên ơi! Thế cũng là vui rồi. Hãy tiếp tục rong chơi nữa đi với hư không bất tuyệt”.
Tám câu thơ trên, thi sĩ đã cất lên lời kiêu hãnh một cách bi tráng, để đáp lại cái “kiêu hãnh” từ lâu của Thượng Đế?! Một suy nghĩ, một thái độ lạ lùng, đáng yêu biết bao!!! Tám câu thơ trên, Nhiên viết năm 1972, trích trong bài thơ “Giữa Trần Gian Tuyệt Vọng”, lúc Nhiên vừa tròn 20 tuổi. Thơ đã linh cảm, ứng nghiệm như định mệnh. Đúng 20 năm sau, Nhiên giã biệt trần gian, tròn 40 tuổi.
Nếu so với một số thi sĩ tiền bối, đàn anh đi trước như: Hàn Mặc Tử (1912 -1940, 28 tuổi), Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938, 24 tuổi), Bích Khê (1916 -1946, 30 tuổi), Phạm Hầu (1920-1944, 24 tuổi), Quách Thoại (1930-1957, 27 tuổi), thì Nhiên không phải là người mệnh yểunhư các vị trên, tính theo tuổi tác. Nhưng các vị kia mệnh yểu vì bệnh nan y, còn với Nhiên, theo tôi, có lẽ do hai nguyên nhân chính: Do chứng hoang tưởng của bệnh tâm thần phân liệt và do quá cùng quẫn, bế tắc trong cuộc sống cá nhân (thân bệnh và tâm bệnh) nên Nhiên đã tìm cách tự hủy mình, cũng là cách để thách thức Thượng Đế bằng một kết thúc đẹp và bi thương như vậy, “phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định”? Thật tình, đây cũng chỉ là cách suy đoán, suy diễn có tính chủ quan. Còn cái vô hình của định mệnh thì chỉ có hư không mới biết được!!!
Nhiên là một thi sĩ bẩm sinh, tài hoa, suốt đời cuồng nhiệt, đam mê với thơ, đặc biệt là thơ tình. Biết làm thơ từ rất sớm: Mới 14 tuổi (1966), Nhiên đã có tập thơ đầu tay “Nàng Thơ Trong Mắt” và hai năm sau, 16 tuổi (1968), viết tiếp tập thơ “Dấu Mưa Qua Đất” (cả hai tập thơ này đều ký bút danh Hoài Thi Yên Thi). Năm 1970, đúng 18 tuổi, Nhiên tự ấn hành tập thơ “Thiên Tai”, cũng là bút danh Nguyễn Tất Nhiên lần đầu tiên xuất hiện trên thi đàn miền Nam. Năm 1978, Nhiên vượt biên và định cư tại Pháp. Tại đây, nhà xuất bản Sud-Asie, Paris,đã ấn hành tập “Thơ Nguyễn Tất Nhiên” gồm những bài thơ sáng tác từ 1970-1980. Sau đó, Nhiên sang Hoa Kỳ, định cư tại Nam California, tiếp tục sáng tác thơ, nhạc. Nhiên tiếp tục cho ấn hành các tập thơ “Chuông Mơ” (NXB Văn Nghệ, 1987), “Tâm Dung” (NXB Người Việt, 1989), “Minh Khúc” (1990, đã hoàn tất bản thảo, phổ biến hạn chế. Gần đây có xuất hiện trên mạng internet dưới dạng PDF). Ngoài ra, “kho tàng” thơ Nguyễn Tất Nhiên còn khá nhiều, hiện được gia đình lưu giữ.
Tôi yêu kính thiên tai
Vì thiên tai đẻ ra tôi
Bìa sau của tập thơ “Thiên Tai”, Nhiên cho in một “tuyên ngôn” ngắn, khá kiêu ngạo, lạnh lùng, ẩn giấu phía sau khí chất tự hào của thi sĩ:
“Tôi kiêu ngạo trước nhiều thiên tai
Tôi điên khùng tôi phí đời tôi phi thường tôi rách nát trước một thiên tai
Thiên tai lớn
Tôi cuồng tín với thơ
Tôi dầm mình trong thơ
Tôi hét ra thơ
Vì thơ dựng đứng được tôi suy tôn được tôi
Vì thơ là độc dược là kinh kệ chịu đựng nổi thiên tai
Tôi yêu kính thiên tai
Vì thiên tai đẻ ra tôi
Vì tôi chửi rủa thiên tai đỡ buồn
Mỗi thiên tai là một người tình
.
Tôi tuyên chiến rồi đó
Ra mặt đi hỡi những kẻ từ lâu nuôi dự tính hạ sát tôi
.
Cảm ơn
Cảm ơn thần thánh
Cảm ơn hơi ấm những người khốn nạn cùng tôi”
Vậy“thiên tai” là gì? Là ai? Thi sĩ giải bày: NGƯỜI TÌNH – “mỗi thiên tai là một người tình” – Chỉ có THƠ mới cứu được thi sĩ trước “thiên tai” đó, “vì thơ dựng đứng được tôi suy tôn được tôi”, “vì thơ là độc dược là kinh kệ chịu đựng nổi thiên tai”.
Đọc lại “tuyên ngôn, tuyên chiến” của thi sĩ, tôi chỉ biết gật gù rồi mỉm cười một mình, thuận tay gõ ngay mấy câu cảm ứng vào bài viết để trêu bạn: “Thiên tai vần với thiên tài / Tài tai tái mặt hình hài bão dông / Tất Nhiên thơ hét hư không / Thánh Thần bỏ trốn khốn cùng trần gian…”. Đúng không Nhiên?
Ở đâu đó, tôi như thấy Nhiên cũng đang gật gù rồi mỉm cười, chẫm rãi, rõ giọng, đáp lại:
“Tôi yêu kính thiên tai
Vì thiên tai đẻ ra tôi”
Nhiên “cảm ơn thần thánh” nhưng thần thánh đã bỏ trốn, để Nhiên một mình ở lại trần gian, đam mê, cuồng nhiệt với Tình Yêu, với Thơ – với THIÊN TAI.
Tập thơ “Thiên Tai” với số lượng thơ khiêm tốn (15 bài), nhưng đã tạo được dấu ấn đặc biệt cho tên tuổi Nguyễn Tất Nhiên. Những bài thơ tình đầu đời của Nhiên độc sáng một cõi riêng bởi thi ảnh, thi tứ, thi pháp táo bạo, độc đáo.
Bài thơ “Linh Mục”, (nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang phổ nhạc, đổi thành Vì Tôi Là Linh Mục), với cấu trúc năm chữ, lạ lùng, mới toanh ý tưởng, ẩn dụ về Tình Yêu, về Người Tình – tự nhận mình là linh mục, nhưng tôi-linh-mục“không mặc áo nhà dòng”, “không biết mặt thánh thần”, “không biết rửa tội người”, “không có thánh kinh”, “không có bổn đạo”, tôi-linh-mục chỉ biết “giảng lời tình nhân gian”, “phổ lời tình nhân gian”, tôi-linh-mục chỉ có duy nhất một tín đồ: “tín đồ là người tình / người tình là ác quỉ / ác quỉ là quyền năng / quyền năng là tín đồ / tín đồ là người tình”. Giải thích lòng vòng theo kiểu tam-tứ-ngũ đoạn luận, cuối cùng, thi sĩ kết luận: “tín đồ là người tình!”. Đúng là giải thích, lập luận theo kiểu của thi sĩ. Rốt cục, vị tôi-linh-mục-thi-sĩ này biết mình “tội còn thâm vai” vì mình chỉ có duy nhất một tín-đồ-người-tình, cho nên mình phải “suốt đời hiu quạnh, suốt đời lang thang”. Tôn vinh, cuồng nhiệt với Người Tình như thế, thật đúng là… đỉnh của đỉnh!
Bài thơ “Khúc Buồn Tình”, (nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc, đổi thành Thà Như Giọt Mưa), với cấu trúc bốn chữ, đột phá âm tiết, nhịp điệu, hình ảnh lạ lẫm “người từ trăm năm / về qua sông rộng / ta ngoắc mòn tay / trùng trùng gió lộng”, “người từ trăm năm / về như dao nhọn / ngọt ngào vết đâm / ta chết âm thầm…”. Ngoắc người tình đến nỗi phải mòn tay thì thật là kỳ lạ cho trí tưởng tượng! Hình ảnh người tình về như dao nhọn, ngọt ngào vết đâm, chỉ có thi sĩ mới tưởng tượng được như vậy! Tứ thơ buồn dằng dặc, ray rứt như những giọt mưa đang rơi, đang vỡ, đang khô trên tượng đá theo liên tưởng của thi sĩ.
Hai bài thơ hay và lạ, được âm nhạc chắp cánh thêm nên đã nhanh chóng đi vào lòng người, nhất là thế hệ học trò, tươi rói tình yêu của tuổi mới lớn.
“Thiên Thu”, bài thơ in ở cuối tập thơ “Thiên Tai”, với cấu trúc bảy chữ phá cách – hay và đẹp xuất thần! Giọng thơ điềm đạm, trầm buồn, vượt xa hẳn độ tuổi 18, khi thi sĩ viết bài thơ này:
sao thiên thu không là xa nhau?
nên mưa xưa còn giăng ngang hồn sầu
tôi đứng như cây cột đèn gãy gập
và một con đường cúp điện rất lâu
sao thiên thu không là chôn sâu?
nên nắng xưa còn hanh mái tóc nhàu
tôi đứng như xe tang ngừng ngập
và một họ hàng khăn trắng buồn đau
sao thiên thu không là đường chim?
nên mây năm xưa còn trên tay phiền
tôi đứng như tường vôi luống tuổi
và những tàng xanh chùm gởi quê hèn!
sao thiên thu không là lãng quên?
nên tình xưa còn cháy âm thầm
tôi đứng như căn nhà nám lửa
và những người thân trốn chạy vội vàng!
sao thiên thu không là sương tan?
nên mặt trời xưa còn gượng huy hoàng
tôi đứng như dòng sông im lặng
và những cánh buồm kiệt sức lang thang!
sao thiên thu không là thiên thu
nên những người yêu là những ngôi mồ
tôi đứng một mình trong nghĩa địa
và chắc không đành quên khổ đau!
(Thiên Thu, 1970)
“tôi đứng như cây cột đèn gãy gập / và một con đường cúp điện rất lâu…” một liên tưởng bất ngờ, độc đáo để diễn tả tâm trạng sầu nhớ người tình. Rất thực nhưng cũng rất thơ! Hai câu cuối: “tôi đứng một mình trong nghĩa địa / và chắc không đành quên khổ đau!”. Làm cho ta phải lặng người thương cảm.
Hầu hết những bài thơ trong “Thiên Tai”, Nguyễn Tất Nhiên đã dồn hết tâm sức, tâm lực, tâm khảm, tâm huyết, tâm hồn cho NGƯỜI TÌNH. Tôi chỉ xin giới thiệu trong bài viết này ba bài thơ tiêu biểu nhất đã đề cập ở trên, có dấu ấn nổi trội nhất về đặc điểm thơ tình của thi sĩ: Đam mê, cuồng nhiệt, sầu khổ, tuyệt vọng, bi thương… kết tụ thành cái ĐẸP trong thơ, dâng hiến cho NGƯỜI TÌNH (mà theo thi sĩ, NGƯỜI TÌNH cũng là “ác quỷ”, cũng là kẻ đầy “quyền năng” nhất đối với mình).
NGƯỜI TÌNH có thật, học cùng trường với Nhiên, đã “về như dao nhọn / ngọt ngào vết đâm” thường xuyên trong ký ức, trong nỗi nhớ – mãi là niềm cảm-hứng-hạnh-phúc-khổ-đau nhất của thi sĩ từ buổi gặp gỡ đầu tiên và ám ảnh mãi cho đến cuối cuộc đời. Có thật trong cuộc đời, nhưng người nữ ấy vẫn chỉ là ảnh ảo một phía, là tình yêu một phía của thi sĩ! Phải chăng đây là ứng mệnh của Thiên Tai?
Xin thưa, rất đúng: “tôi yêu kính thiên tai / vì thiên tai đẻ ra tôi”. Cũng chính ứng mệnh đó, đã ráo riết bám sát cuộc đời của thi sĩ, bầm dập, nát tan – Và cũng chính ứng mệnh đó, thơ tình Nguyễn Tất Nhiên ngày càng thăng hoa, rực rỡ riêng một cõi.
Tâm Dung –
Vọng mà biết mình vọng, còn hơn không
Tập thơ “Tâm Dung”, (NXB Người Việt, Calif., 1989) gồm 18 bài thơ, trong đó có 15 bài thơ mang tựa đề bắt đầu bằng chữ “Tâm…” (Tâm Khai, Tâm Sân, Tâm Hoa, Tâm Xuân, Tâm Hồng, Tâm Hương, Tâm Mưa, Tâm Sương, Tâm Cảm, Tâm Ca, Tâm Tưởng, Tâm Nguyệt, Tâm Cảnh, Tâm Chung, Tâm Duyên).
Ngay trong trang đầu của tập thơ, thi sĩ viết:
“Dung, theo nghĩa dung chứa.
Năm lần Phật chỉ cho ngài A Nan, tâm là cái thấy.
Lấy cái thấy phân biệt để chỉ cái thấy vô phân biệt, lấy cái tâm vọng để chỉ cái tâm chơn, lấy ngón tay phàm phu để dụ như ngón tay Phật chỉ trăng. Kẻ trèo đèo này chỉ mong góp một cỏn con Phật sự, vọng động chăng?
Chỉ mong quí thiện hữu niệm tình: vọng mà biết mình vọng, còn hơn không”.
“Vọng mà biết mình vọng”, theo Phật pháp, đó là pháp “biết vọng”: Lúc đối duyên xúc cảnh, niệm khởi lên, ta liền biết đó là vọng tưởng, không bị nó lôi dẫn. Khi ta không chạy theo vọng tưởng, vọng tự nhiên biến mất, ngay lúc đó, tâm liền an. Trong pháp “biết vọng” có hai lối tu tập: Biết vọng liền buông và Biết vọng không theo. Đây là phương tiện cho những người có chí tu tập, hành trì nhưng chưa thấy tánh, phải tạm dùng phương tiện này để phá cái “chấp ngã” về tâm. Đến khi vọng tưởng lặng dứt thì pháp đối trị cũng dừng, đủ nhân duyên, liền quay về hội nhập tự tánh, tức là kiến tánh.
Phải chăng, bản thân Nguyễn Tất Nhiên tự biết mình đã quá chạy theo vọng tưởng, vọng động, vọng niệm, và đã từng nếm mùi khổ ải trong tình yêu, bầm dập khôn lường, nên giờ đây đã quay về nương tựa Phật pháp?
15 bài thơ mang tựa đề bắt đầu bằng chữ “Tâm…”, thơ của Nhiên đã chuyển hóa một cách khác thường. Cũng là những suy nghiệm, hồi tưởng, cảm xúc về Tình Yêu, về Người Tình, nhưng là những suy nghiệm, hồi tưởng, cảm xúc rất bao dung, độ lượng – không còn ưu uất, oán trách, giận hờn, bi lụy như trước đây nữa. Xin trích dẫn một số đoạn thơ tiêu biểu:
“… hôn em thảng nụ bất ngờ
bỗng nghe trật tự khá nhiều đổi thay!
(ví dù nội cỏ ngàn cây
cũng môi trường đúng mới khai lá cành
mới đơm bông, mới trái lành
như tôi hướng thiện bởi tình thăng hoa)…”
(Tâm Khai)
Hôn em như thế thì còn gì bằng nữa hỡi thi sĩ? Tôi cũng phải phát thèm! Hôn em xong, rồi ôm nhau bay luôn lên cõi trời hồng mênh mông lãng đãng thì hỉ lạc biết bao nhiêu!!!
“… luật chơi
thi sĩ
là kẻ
phải gục ngã thảm thiết
gục ngã tận bình sinh
trong trò đùa ngôn ngữ
ngã gục vì không tin
văn chương gian lận mình
bởi chế độ
bởi chính trị
bởi xã hội vật dục
bởi vận tốc văn minh xô sấp ngửa trắng trợn từng ngày”
(Tâm Sân)
Rất thương, rất cảm kích và rất mừng cho thi sĩ đã “ngộ” ra cái lẽ đương-nhiên, cái lẽ sở-dĩ-nhiên, cái lẽ nhiên-như-nhiên-tất-nhiên này! Thật ra, những điều này không hẳn dành riêng cho thơ, cho thi sĩ đâu, mà là cho cả cuộc-đời và cuộc-người đấy Nhiên à!!!
“… hỡi người nhỏ nhẹ gót chân sen
cành nhánh hồn tôi rất yếu mềm
những nụ cười tôi sầu tản mạn
chỉ xin hài điệu với thiên nhiên…”
(Tâm Hoa)
Nhẹ lòng, thanh thản tâm hồn quá rồi còn gì!
“… em có mắt nhìn lên quang đãng
đất trời tám tiết cũng trong veo
bông lúa lòng anh thơm sữa quá
tâm xuân trời đất cũng xuân theo…”
(Tâm Xuân)
Em-anh-trời-đất nhất tâm hòa điệu. Há chẳng vui sướng sao!
“… bạn thân ơi là bạn thương
vườn đông phương bát ngát quê hương
phong phú hạt tâm hồng
tuyệt vời nở đóa vòm từ lượng mẹ
đóa khung hồn xanh cửa sổ tình chân…”
(Tâm Hồng)
Còn gì đẹp bằng, hỡi thi sĩ! Khi hạt tâm hồng “tuyệt vời nở đóa vòm từ lượng mẹ…”. Đó chính là cái đẹp thiêng liêng, vi diệu của Tình Yêu,“đóa khung hồn xanh cửa sổ tình chân…”. Đó chính là cái đẹp bất tuyệt của Tình Yêu.
“…giữ cho nhau một chút nào
giữ duyên đáp nghĩa đền câu phụ lòng
giữ thơm không khí phiêu bồng
giữ mây cho khói mang hồn sông theo…”
(Tâm Hương)
Nếu em có phụ lòng, thì anh đây vẫn giữ duyên đáp nghĩa đền câu phụ lòng của em. Không hề gì! Em có mất đi mô đâu mà anh phải lo buồn, vì anh vẫn “giữ thơm không khí phiêu bồng / giữ mây cho khói mang hồn sông theo…” đấy em à. Thiện tai, thiện tai!
“…phải em là giọt mưa theo
cho ao yên đỗ cá gieo vần bèo
cho thuyền con bé tẻo teo
nghe thu gợn tí tình nghèo mà vui
phải em giọt ngậm giọt ngùi
giọt đường vắng giọt ngừng trôi mây chiều
giọt mười thương nhớ hắt hiu
giọt ve tấu khúc anh theo ngọ về
giọt lan cắt tóc quên thề
giọt ngàn năm điệp tình quê não nùng
phải em là giọt chung thân
cây quanh năm học làm xanh sắc vàng
phải em giọt nước giọt non
giọt non nước giọt hãy còn thề xưa…”
(Tâm Mưa)
Em thấy chưa? Tình yêu anh dành cho em lãng đãng mênh mông biết bao. Từ nay, sẽ không còn cái cảnh anh phải ngồi ở quán cà phê gần nhà thờ vào mỗi buổi chiều, thấp thỏm mong ngóng em xong lễ nhà thờ chưa, để chỉ mong được nhìn dáng em lướt qua một chút thôi, để rồi tối về làm thơ nhớ em… Bây giờ, anh cũng chẳng cần làm ông linh mục nữa! Ôi cái tôi-linh-mục mệt quá và buồn quá em ạ. Giọt mưa của anh ngày xưa rơi, vỡ, khô trên tượng đá thảm quá phải không em?! Hôm nay, phải em là giọt mưa theo thì chắc chắn em sẽ bay, rơi và thấm miên man như dòng thơ sáu tám anh viết đây nè! Giọt mưa sẽ khiến cho những hồn thơ thức giấc chớp mắt nhìn theo. Em hãy đọc chậm bài thơ lại đi rồi sẽ thấu lòng anh. Hà hà!
“…buồn ơi…
tôi bỏ tôi chìm đắm
trong tiếng làm thinh của ghế bàn
ghế bàn không sẻ chia sầu thảm
nhưng biết làm thinh lặng cảm thông
bàn ghế đâu như người vui nhảm
tọc mạch đời nhau để miệng mồm
buồn ơi, tôi muốn như bàn ghế
chịu đựng đời không biết thở than!
[…]
buồn ơi…
tôi bỏ tôi rời rã
bất lực làm sao trước cuộc đời
ừ nhỉ, trước giờ tôi chiến đấu
cho niềm bất lực buổi hôm nay!
ừ nhỉ, bây giờ tôi mới biết
ghế bàn nên kính trọng như thầy
bàn ghế dạy tôi điều nhẫn nhục
dạy tôi bình thản thứ tha đời
bàn ghế có bao giờ bất lực
có bao giờ biết đợi trông chi
buồn ơi, tôi muốn như bàn ghế
thương đời như thể bỉ khinh thôi!
(…)
buồn ơi…
tôi có tôi-bàn-ghế
nguyện hiến cho đời một tấm lưng”
(Tịnh Khúc)
Bài thơ như một bài kinh sám hối, đầy xúc cảm, rất mực chân thành, hồi hướng quay về Chơn Tâm, sau khi thi sĩ đã “biết vọng”. Giọng thơ da diết, trầm trầm, “… buồn ơi… / tôi có tôi-bàn-ghế / nguyện hiến cho đời một tấm lưng”. Nhưng Nhiên ơi! Thật lòng tôi chẳng biết, Nhiên đã thật tình “buông vọng” và “không theo vọng” được chưa?
“Tâm Dung”, bài thơ cuối cùng, cũng là bài thơ chính của tập thơ, như một tản-văn-thi, gồm 12 đoạn, dung chứa, dung nhiếp trọn vẹn tâm cảnh của thi sĩ.
Cái cách thế suy nghiệm về Tình Yêu, về Người Tình nồng ấm sâu xa như tình mẫu tử. Tôi liên tưởng đến hình ảnh “mẫu thân” của đại huynh thi sĩ Bùi Giáng (Mẹ về đứng ở đầu sân / Cuối cùng mẹ bước vô ngần mẹ đi…). Nguyễn Tất Nhiên cũng một giọng điệu tha thiết như thế:
“1. có thể nào trẻ thơ sống bên ngoài lòng mẹ? có thể nào anh sống ngoài tầm mắt em?”
…
“7. có thể nào môi mẹ không cần má con thơ? Em từ tâm anh tin tưởng sống chẳng thể nào…”
Đoạn thơ thứ tám, trong trẻo hồn nhiên đến nao lòng:
“anh vẫn ngây thơ trong sáng như thời mới lớn như thuở mười bốn làm thơ yêu em mà ngủ phương phi trên nệm-gối-thơ mình, anh vẫn thắm tươi hy vọng như thời mới lớn như thuở mười sáu mười bảy làm thơ yêu em mà thức dậy trên thảm-cỏ-thơ mình hướng mũi về gần một đóa hoa hàm tiếu hít ắp đầy hai cánh phổi lành tươi luôn được tinh lọc bởi những buổi bình minh bầu hồng căng sữa nóng rồi sau cơn ngây ngất đê mê anh dồi dào năng lực sống suốt hai mươi bốn giờ, anh vẫn tin yêu thành tín như thời mới lớn như thuở mười tám mười chín làm thơ yêu em mà quỳ hôn lên bóng người yêu đổ dài vào công-viên-thơ mình rồi trong cơn chiêm ngưỡng triền miên anh hoàn toàn chẳng còn bất cứ tiếng gì từ chung quanh đường phố chợ người điệp trùng xe cộ để, tiếng đều đều thạo việc ong đàn xây tổ, để, tiếng tung tăng bướm lũ rập rờn vẩy màu thành bài ngợi ca hoa ngàn hiền khoe mơn mởn sắc, để, anh hoài hoài cặm cụi ngồi lựa từng-cọng-rơm-sợi-lác thơ mình những mong dệt thành chiếc-đệm-chất-phác-tình-yêu dài trải bằng suốt kiếp người này cho nhỏ nhẹ đôi bàn chân em đời còn mềm mại mãi…”
Vậy là, gần 20 năm trải nghiệm, từ “Thiên Tai” đến “Tâm Dung”, thơ tình của Nguyễn Tất Nhiên vẫn trong sáng, tinh khôi như thuở ban đầu. Tình Yêu, Người Tình vẫn thiêng liêng, mầu nhiệm; vẫn là những rung động sâu lắng, bềnh bồng; vẫn là nguồn an ủi, cảm hứng bất tận cho thi sĩ. Có khác chăng, là sự chuyển hóa của tâm cảnh, cách nhìn, cách nghe, cách cảm thụ về Tình Yêu, Người Tình. Đã qua rồi một thời bồng bột, sôi nổi, cuồng mê của “Thiên Tai”, giờ đây, “Tâm Dung” sâu lắng hơn, trầm tĩnh hơn, bao dung và độ lượng hơn.
Thật tình, cuộc đời Nguyễn Tất Nhiên rất bất hạnh về tình yêu. Người bạn đời sau này của thi sĩ cũng là kết quả của một mối tình rất đẹp từ thuở học trò. Nhưng “Ông Xanh” cũng thật oái ăm, quái ác! Cuối đời, Nhiên cũng đã phải chia tay người bạn đời ấy, xa cách hai đứa con mà mình rất mực thương yêu. Tôi hiểu, Nhiên rất cô đơn và đau xót từ thể xác đến tâm hồn. Tôi nghĩ, cũng chính sự cô đơn tận cùng đó, tố chất bẩm sinh của thi sĩ lại ngày càng phát tiết, thăng hoa. Giọng thơ của Nhiên về cuối đời, trong tập thơ “Minh Khúc” càng bao dung, độ lượng hơn, mặc dù rất ngậm ngùi:
“đường không gian – đã phân ly
đường thời gian – đã một đi không về…
những con đường mịt sương che
tôi vô định lái chuyến xe mù đời
cu tí ngủ gục đâu rồi?
băng sau, ngoái lại, bời bời nhớ con!
đường trăm năm – nát tan lòng
đường ngàn năm – hận, xin đừng trả nhau!
những con đường cuối năm nào
cho tôi tìm lại cành đào ba sinh
khi em lễ mễ với tình
thắp nhang tạ tội sinh thành con đi…
đường chung đôi – đã chia đời
đường chia đôi – vẫn hơi người quẩn quanh
chim đêm hót tiếng đau tình
đau tim tôi chở lòng thành kiếm em…”
(Minh Khúc 90 – Trích trong tập thơ “Minh Khúc”).
*
40 năm ngắn ngủi của một đời người, từ lúc mới biết làm thơ (13-14 tuổi) cho đến ngày hắt hơi từ biệt trần gian (40 tuổi), Nguyễn Tất Nhiên đã sống trọn vẹn với phẩm cách thi sĩ, cuồng nhiệt với Thơ, đã tận tâm, tận tình, tận hiến cho Thơ. Tài hoa – Mệnh bạc! “Tất Nhiên ấy chính là Nhiên vậy”. Nhiên ơi, Tôi chơi chữ tinh nghịch, hàm hỗn lai rai chút tình bằng hữu văn chương từ thời trai trẻ, để bạn có thể gật gù mỉm cười đâu đó, như cách nay trên 40 năm, tại Sài Gòn, bạn và tôi thi thoảng gặp nhau, ngồi quán uống cà phê, hút thuốc liền tay, im lặng nhìn lên mái phố đã về chiều, thỉnh thoảng buông vài câu tào lao, gật gù mỉm cười khinh khoái, rồi chia tay.
Tôi rất nhớ bạn và cũng đang gật gù mỉm cười đây. Nhiên ơi!
Bolsa, 11. 2012. Đọc lại và hiệu đính, cuối tháng 5.2017 nhân sinh nhật lần thứ 65 của Nguyễn Tất Nhiên.
Ghi chú:
– Phần tiểu sử và thi nghiệp của Nguyễn Tất Nhiên, đã được khá nhiều tạp chí, trang mạng phổ biến. Người viết xin không ghi chú lại.
– Thơ Nguyễn Tất Nhiên và một số tư liệu văn học khác, được tham khảo trên Google, trang mạng Wikipedia VN.
– Cám ơn nhà thơ Lê Giang Trần đã cho mượn tập thơ “Tâm Dung”.
– Có tham khảo thêm với nhà thơ Nguyễn Hoàng Nam, em ruột của thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên về một số bài thơ trích dẫn để đúng với nguyên tác và cuộc sống đời thường của Nhiên tại Quận Cam, California, Hoa Kỳ.