Chuyện xưa tích cũ



Mạnh Kim
Một giờ với bà Jackie Bong-Wright

80 tuổi nhưng hoàn toàn minh mẫn, bà có thể kể lại từng chi tiết những sự kiện quá khứ như thể thời gian không thể tàn phá ký ức bà, từ chuyện người chồng – giáo sư Nguyễn Văn Bông, Viện trưởng Viện Quốc gia Hành chánh VNCH, bị ám sát tại Sài Gòn cách đây gần tròn 50 năm (tháng 11-1971) đến những hoạt động xã hội-chính trị tích cực sau khi đến Mỹ. Bà là Jackie Bong-Wright – một chứng nhân lịch sử chiến tranh Việt Nam mà không chỉ cá nhân bà mà cả gia đình bà cũng là một phần trong đó. Buổi nói chuyện với bà những ngày giáp Tết Tân Sửu 2021 không chỉ khơi gợi hình ảnh và dữ liệu lịch sử mà còn cho thấy nghị lực đáng nể của một mẫu phụ nữ Việt Nam hiếm gặp: rất “Tây” trong tư duy nhưng rất “Ta” trong triết lý sống đậm đặc truyền thống Á Đông.

Bà – tên Việt Nam là Lê Thị Thu Vân – thích miêu tả mình như một cánh bướm đầy màu sắc, bay nơi này nơi kia, nhặt nhạnh những mẫu văn hóa và mang đến sự hài hòa ở bất cứ nơi nào mình có mặt. Khó có thể kể hết những đóng góp của Jackie Bong-Wright cho cộng đồng người Việt trong suốt bốn thập niên kể từ khi bà đến Mỹ. Cũng khó có thể tưởng tượng một phụ nữ gầy nhỏ – hệt như ngoại hình nhỏ gầy của Đệ nhất phu nhân Nancy Reagan, người mà bà từng được mời gặp trực tiếp trong Tòa Bạch Ốc – lại ẩn tiềm nhiều năng lượng như vậy. Triết lý sống của bà là niềm tin. Niềm tin giúp bà vượt qua nhiều biến động từng đánh gục mình mà niềm tin cũng giúp dân tộc vượt qua nhiều thăng trầm. Bà định nghĩa thành công không phải là việc lên đến đỉnh nhanh và cao như thế nào mà là khả năng bật dậy cao và nhanh như thế nào khi ta rơi chạm đáy. Những sự kiện nào đáng kể nhất để minh họa cho sự “bật dậy” khi bị rơi xuống đáy mà bà có thể kể lại – tôi hỏi…

Lần thứ nhất là sự kiện ám sát Giáo sư Nguyễn Văn Bông, khi bà sống với ông vỏn vẹn sáu năm, có ba mặt con, và lúc đó bà chỉ hơn 30 tuổi. Cái chết bi thảm của chồng đã làm gục ngã bà hoàn toàn. Trong nhiều ngày, bà nằm nhẹp gần như bất động. Khóc nhiều đến mức mắt sưng húp không thể đọc chữ. Bà không biết nên oán giận ai. Chị ruột của bà đã tập kết ra Bắc “đi theo cộng sản”; trong khi hai người anh/em trai của bà khoác áo lính VNCH và chồng bà chọn con đường chính trị đối lập với bộ máy đang cai trị VNCH của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

Bà bỏ ăn và mất ngủ suốt nhiều ngày. Người nhà đưa bà vào Chợ Lớn gặp một ông thầy thuốc Tàu. Bà bắt đầu ngủ được. Quan trọng hơn, bà bắt đầu nghĩ đến các con. Chúng sẽ ra sao nếu thiếu bà? Ba đứa con nhỏ là động lực để bà bật dậy. Nhớ lại hình ảnh người chồng đầy ý chí, nỗ lực vươn lên từ hoàn cảnh cực kỳ nghèo khổ và học miệt mài để cuối cùng trở thành một giáo sư luật lừng lẫy, bà tự nhủ bà phải cứng rắn và mạnh mẽ đứng lên để không phụ lòng chồng. Hai tháng sau, bà bỏ việc dạy Pháp văn và làm việc cho Trung tâm Văn hóa Việt Mỹ (thuộc Cơ quan dịch vụ thông tin Hoa Kỳ – U.S. Information Services) với vị trí giám đốc.
Bà tổ chức các buổi thuyết trình, hội nghị, chương trình hòa nhạc, triển lãm, dạy nghề… Tiếp đó, bà vận động các chiến dịch vì nữ quyền. Bà thậm chí thực hiện một cuộc “cách mạng” chưa từng có ở miền Nam: vận động Quốc hội VNCH thông qua luật kế hoạch hóa gia đình, bất luận báo chí lên án gay gắt vì nghĩ rằng bà cổ xúy phá thai trong khi thật ra bà vận động ngừa thai. Bà trở thành một trong phụ nữ sáng chói nhất xã hội lẫn chính trường VNCH giai đoạn đó dù bà không hề là chính khách và có tham vọng chính trị. Bà bật dậy mạnh đến mức được báo chí Mỹ thường xuyên nhắc đến, với vai trò và sự xuất hiện liên tục của bà trong xã hội miền Nam. Năm 1972, bà được mời ăn trưa với Phu nhân Thống đốc California Nancy Reagan (người sau này là Đệ nhất phu nhân Tổng thống Mỹ) tại Sài Gòn. Năm 1973, tờ New York Times phỏng vấn bà. Trong cùng năm, bà dự một hội nghị Liên Hiệp Quốc về phụ nữ…

Lần thứ hai bà “bounce back” là khi đến Mỹ năm 1975. Nếu năm 1971 bà chỉ mất chồng thì năm 1975 bà mất tất cả. Bà không biết phải làm lại từ đầu với hai bàn tay trắng như thế nào. Xin việc nơi nào cũng bị từ chối. Xuất thân từ gia đình cực giàu, sống nhung lụa như tiểu thư, học trường Pháp ngữ ở Đà Lạt; rồi du học Pháp, Anh và sau đó Mỹ, bà có bằng cử nhân Pháp nhưng không có bằng… đánh máy và gần như không có kỹ năng chuyên môn nào khác ngoài trình độ ngoại ngữ và ngoại giao. Bà thấy mình vô dụng. Bà khóc cho sự “bất tài” của mình. Một lần nữa, bà lại nghĩ đến các con. Bà không thể gục ngã để con bà bơ vơ nơi xứ lạ. Bà bật dậy.
Với sự giúp đỡ của cựu Đại sứ Mỹ tại VNCH Ellsworth Bunker, bà dần hòa nhập vào cuộc sống mới. Bà đi làm ở Lacaze Gardner School tại Washington DC. Lúc này, làn sóng tỵ nạn người Việt đến Mỹ bắt đầu tăng. Bà lao vào việc giúp đỡ họ. Bà cùng Hội Phụ Nữ Thái Bình Dương Á Mỹ (Asian Pacific American Women) vận động Quốc Hội Mỹ giúp người tỵ nạn tái định cư. Bà còn thành lập tổ chức phi lợi nhuận Dịch Vụ Xã Hội Tỵ Nạn Đông Dương (Indochinese Refugees Social Services- IRSS) để mở nhà tạm trú, tổ chức lớp dạy nghề cho những người Việt chân ướt chân ráo mới sang… Sau khi mọi việc tạm ổn và cảm thấy ít nhiều chu toàn nghĩa vụ xã hội, bà ghi danh vào Đại học Georgetown, nơi bà học với Tiến sĩ Madeline Albright, người sau này là Ngoại trưởng Hoa Kỳ trong Nội các Bill Clinton. Hai năm sau, năm 1984, bà lấy bằng cao học (master) về bang giao quốc tế…
Lần thứ ba bà bật dậy, chính xác hơn là bà có thêm động lực và niềm tin để bật dậy, là cuộc tình với ông Lacy Wright, một viên chức ngoại giao Hoa Kỳ. “Nhờ anh ấy, tôi lấy lại hy vọng. Anh ấy kéo tôi ra khỏi những cơn trầm cảm. Anh ấy yêu thương và chiều chuộng tôi hết mực. Anh ấy cũng thương yêu các con tôi. Anh ấy chơi đùa thân thiện với chúng, cõng chúng trên vai, chăm sóc chúng như con ruột. Anh ấy mang lại cho tôi không chỉ hạnh phúc mà còn niềm tin. Tôi đã bật dậy với tình yêu của Lacy…” – bà kể…
Dù bà không nói nhưng dường như sau mỗi lần “bounce back” bà đều bật dậy cao hơn. Từ năm 1999, bà làm chủ tịch kiêm giám đốc điều hành Hội cử tri người Mỹ gốc Việt chuyên vận động giúp cử tri Mỹ gốc Việt đi bầu. Bà tổ chức rất nhiều hoạt động văn hóa cho cộng đồng nói chung. Năm 2003, bà được tạp chí Washingtonian chọn là “nhân vật Washington DC trong năm” (“Washingtonian of the Year”) với thành tích 27 năm cống hiến cho cộng đồng trong khu vực. Trước đó hai năm, năm 2001, bà ấn hành hồi ký Autumn Cloud: From Vietnam War Widow to American Activist.
Chưa hết, bà còn là nhà báo, viết cho tờ Asian Fortune News; và là người dẫn chương trình cho một số chương trình phát thanh phục vụ người Mỹ gốc Việt. Cũng chính từ việc viết báo và làm phóng sự nên bà có dịp biết đến cuộc thi Hoa hậu Cao niên tiểu bang Virginia 2004 (dành cho người từ 60 tuổi trở lên). Bà được bạn bè khuyến khích đi thi. Họ thuyết phục mãi bà mới nhận lời và chỉ bắt đầu tập luyện vỏn vẹn một tháng trước ngày khai mạc. Bà là thí sinh gốc Á duy nhất. Bà là thí sinh duy nhất có bằng cao học quan hệ quốc tế. Bà là thí sinh duy nhất tham gia nhiều nhất các hoạt động xã hội và đóng góp giá trị văn hóa và nhân bản cho cộng đồng. Bà là “cánh bướm” duy nhất từng bay khắp nơi và góp nhặt nhiều mẫu văn hóa thế giới, từ châu Á đến châu Âu; từ Việt Nam, Campuchia, Lào, Pháp, đến Ý…
Bà cũng là phụ nữ Việt duy nhất ở thời điểm đó có thể chứng minh cho người Mỹ thấy rằng phụ nữ Việt Nam không chỉ là những người chỉ dựa dẫm vào hệ thống phúc lợi nước Mỹ, chỉ biết việc nội trợ hoặc làm những nghề đơn giản, không có khả năng và ý chí “bounce back” và cũng gần như không mang lại được gì xứng đáng cho xã hội – như cách đánh giá phổ biến. Kết quả: Jackie Bong-Wright là người được trao vương miện. Chiến thắng đó không chỉ cho thấy thêm một sự bật dậy của bà. Sự kiện này nói riêng, cũng như cuộc đời bà Jackie Bong-Wright nói chung, còn có thể được xem là một cảm hứng bật dậy cho nhiều người khác, rằng muốn đi vào “dòng chính” của Mỹ thì cần phải biết làm gì và làm như thế nào, chứ không phải ồn ào xuất hiện vẫy cờ nhốn nháo để rồi những tiếng la hét cuối cùng cũng chỉ nhanh chóng trôi lạc và chìm khuất vào cái bóng đen của dòng thời sự…
EXTRA
Ám sát Giáo sư Nguyễn Văn Bông


Ám sát Giáo sư Nguyễn Văn Bông: Chuyện cũ, ý nghĩa mới Cách đây đúng 40 năm một chính khách miền Nam tên là Nguyễn Văn Bông bị ám sát chết. Khoảng 10 năm trước câu chuyện ông bị ám sát được tiết lộ, và nay câu chuyện đó được tiết lộ một lần nữa trên Dân Việt qua lời thuật của chính người chủ mưu (“Tôi ám sát người sắp làm thủ tướng Sài Gòn”). Đặt trong bối cảnh ngày nay khi Việt Nam đang chống khủng bố, câu chuyện này thật là … khó nuốt (hay nói theo tiếng Anh là distasteful). Khó hiểu nổi tại sao báo chí Việt Nam có vẻ thích ca ngợi những chuyện bạo động như thế này.Ngày 30/4/2011 có đến hai bài báo đáng chú ý. Bài thứ nhất là “Chân dung nữ du kích từng mưu sát Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu” đăng trên Dân Trí kể về chuyện mưu sát ông Nguyễn Văn Thiệu. Nhưng bài đó không “nổi” bằng bài “Tôi ám sát người sắp làm thủ tướng Sài Gòn” đăng trên Dân Việt kể lại tình tiết chung quanh việc giết chết Giáo sư Nguyễn Văn Bông. Ngày mà nói theo nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt là có triệu người vui bên cạnh triệu người buồn mà có những bài báo mang tính bạo động, chết chóc như thế thì quả là khó đọc, nhất là trong lúc Việt Nam đang chống khủng bố. Nhưng bài báo thứ hai khơi dậy lịch sử của một thời đầy biến động ở miền Nam có liên quan đến nhân vật Nguyễn Văn Bông. GS. Nguyễn Văn Bông (1929-1971) Có lẽ cần phải có vài dòng về thân thế của ông Nguyễn Văn Bông. Ngày xưa, khi tôi lớn lên thì chỉ nghe nhiều về ông, chứ chẳng biết chi tiết thân thế ra sao, nên bây giờ phải nhờ đến wikipedia vậy. Theo wikipedia, ông sinh ngày 2/6/1929 tại Gò Công (Tiền Giang) trong một gia đình lao động. Ông nổi tiếng là một học sinh học giỏi và tự lập. Năm 12 tuổi đã tự làm những nghề như sửa xe đạp, phụ đánh máy, quét dọn trường học để kiếm tiền đi học (vì cha mẹ li dị). Ông tự đi du học bên Pháp, tốt nghiệp với bằng tú tài, cử nhân luật từ Đại học Sorbonne (1956), tiến sĩ chính trị học (1960), thạc sĩ công pháp quốc tế (1962). Ông về nước dạy học, và sau này giữ chức viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh (thời ông Thiệu). Cuối năm 1968 ông làm chính trị, thành lập Phong trào Quốc gia cấp tiến, một tổ chức đối lập với chính phủ của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Ông bị mưu sát lần đầu vào năm 1968, nhưng đến lần 2 (1971) ông bị ám sát chết lúc mới 42 tuổi. Gs Nguyễn Văn Bông qua đời để lại vợ mới 30 tuổi, hai trai và một gái. Sau 1975, vợ ông là Lê Thị Thu Vân, còn gọi là “Cô Út” (người ông gặp ở Paris) bà tái giá với một nhà ngoại giao Mĩ là Lacy Wright, và lấy tên mới là Jackie Bông Wright. Sau này bà có viết và xuất bản một cuốn sách giống như hồi kí có tựa đề là Autumn Cloud: From Vietnamese War Widow to American Activist (Mây mùa thu: từ một góa phụ chiến tranh đến một người hoạt động xã hội).Lúc mới nghe tin ông bị ám sát, phu nhân ông là bà Thu Vân tố cáo thủ tướng Trần Thiện Khiêm là thủ phạm giết hại chồng bà. Lời tố cáo này xuất phát từ suy luận rằng Gs Nguyễn Văn Bông đã nhận lời làm thủ tướng trong chính phủ Nguyễn Văn Thiệu (và thế là ngăn chận bước đường công danh của ông Trần Thiện Khiêm – người sau này là thủ tướng). Thế nhưng bà Thu Vân đã sai. Người ám sát Gs Nguyễn Văn Bông là ônng Vũ Quang Hùng, tức tác giả bài viết dưới đây. Ông Vũ Quang Hùng, theo như một nguồn tin, lúc đó là sinh viên năm thứ ba Đại học Khoa Học Sài Gòn (tức Đại học Khoa học Tự nhiên ngày nay) và là thành viên của tổ trinh sát vũ trang của Ban An Ninh T4. Còn người ngồi sau xe honda là Lê Văn Châu như trong bài báo tường thuật là trung úy quân đội VNCH nhưng đồng thời cũng là cơ sở của An Ninh T4. Nhưng chi tiết về cuộc ám sát thì chỉ mới tiết lộ gần đây, nhất là qua bài báo tuần này. Theo lời kể trên Dân Việt thì hai người trinh sát giết ông bằng cách ném cái cặp da chứa chất nổ và lựu đạn dưới gầm xe của ông đang ngừng tại đèn đỏ ngã tư cao Thắng – Phan Thanh Giản. Giáo sư Nguyễn Văn Bông chết tại chỗ cùng những người thân cận ông (3 vệ sĩ và 1 tài xế).Không thấy trong bài viết tại sao người ta phải giết một vị trí thức như thế. Trong bài báo trên Dân Việt không thấy nêu lí do phải hạ sát ông Nguyễn Văn Bông, mà chỉ có những lời kể về kế hoạch thủ tiêu ông. Không biết các bạn thì sao, chứ tôi đọc bài này dù chỉ là muốn tò mò tìm hiểu nhưng vẫn thấy nói theo tiếng Anh là distasteful quá. Người đọc thử đặt mình trong vai trò con hay bà con của Giáo sư Nguyễn Văn Bông, người đọc sẽ nghĩ gì? Cướp đi sinh mạng của một người là một hành động khó mà ca ngợi được, huống chi đây là một việc giết người có toan tính cẩn thận.Câu chuyện ám sát Gs Nguyễn Văn Bông làm tôi nhớ đến chuyện ám sát dân biểu John Newman ở Sydney. Câu chuyện hơi dài, nhưng tôi tóm tắt theo cách hiểu của tôi. Ông Ngô Cảnh Phương (sinh năm 1954) là một người Việt tị nạn ở Úc, sau một thời gian làm ăn, ông cũng khá thành công và có tiền. Ông tham gia chính trường địa phương, trở thành đảng viên của Đảng Lao Động, và có ý định ra tranh cử dân biểu. Đối thủ của ông là John Newman (một di dân từ Đông Âu), đương kim dân biểu, cũng là người của Đảng Lao Động. Hai người không ưa nhau. Nhưng ông Ngô Cảnh Phương có xu hướng thắng thế hơn Newman, và vì thế ông Newman rất sợ mất ghế. Đêm 5/9/1994, John Newman bị bắn chết tại nhà sau khi tham dự một phiên họp của chi bộ đảng Lao Động, trở về. Cảnh sát nghi ông Ngô cảnh Phương lúc đó là nghị viên của Hội Đồng Thành Phố Fairfield (nghị viên cũng giống như chức hội đồng huyện vậy) là người chủ mưu cuộc ám sát. Sau nhiều điều tra, tốn rất nhiều tiền, đến ngày 13/3/1998, cảnh sát bắt ông Phương và hai người khác là Đào Quang và Trần Văn Tuấn. Sau đó là một loạt phiên tòa với nhiều tình tiết bất thường, ngày 29/6/2001 ông bị tuyên án tù chung thân vì tội mưu sát, nhưng Đào Quang và Trần Văn Tuấn thì được tha bổng Cần nói thêm rằng, cảnh sát không hề tìm được bằng chứng để kết tội ông Phương, họ chỉ kết tội ông mưu sát, còn kẻ cầm súng bắn thì cho đến nay vẫn chưa biết là ai! Năm 2004, nhiều người Úc bênh ông Phương trưng bày bằng chứng và đòi hỏi phải xử lại, nhưng tòa vẫn kết án ông Phương. Đến năm 2008, những người Úc ủng hộ ông Phương một lần nữa đệ đơn kháng án, và tòa lại phải xử tiếp, và đến năm 2009 thì vẫn y án. Câu chuyện cho thấy ở Úc (hay bất cứ một nước nào có luật pháp nghiêm chỉnh cũng vậy) giết người hay mưu sát là một tội rất nghiêm trọng. Không thể biện minh việc mưu sát bằng lập luận đối lập chính trị.Chính trường Việt Nam thì có rất nhiều vụ mưu sát và ám sát. Cả hai phe đều dính dáng vào những hành động giết người. Cơ quan tình báo CIA cũng thế. Nhưng có cái khác là CIA thì giữ kín mít những chi tiết giết người của họ, còn Việt Nam thì có vẻ “vô tư” công bố những tình tiết giết người! Đạo đức làm người không cho ai gây hại đến người khác huống chi là giết người. Đọc qua lời kể trên Dân Việt của người chủ mưu, chúng ta dễ dàng thấy đội ám sát lên kế hoạch rất kĩ, chính xác đến từng giây phút. Tính chính xác của họ thật đáng nể. Nhưng chỉ có điều tính chính xác đó đáng lẽ nên phục vụ cho khoa học thì tốt hơn là để cướp đi sinh mạng của một người trí thức.Ở nước ta có một nghịch lí: những sự kiện đáng được bạch hóa nhưng lại không được; ngược lại có những sự kiện không cần bạch hóa (vì rất dễ làm đau lòng nhiều người) nhưng lại được bạch hóa như là một cách xưng tụng! Có những điều nên để cho đi vào quên lãng chứ không nên nhắc đi nhắc lại như là một kì tích. Khơi lại sự việc ám hại người chỉ làm đau lòng thân nhân của người kém may mắn. Người bị sát hại đã về bên kia thế giới, và người sát hại cũng chắc qua tuổi lục tuần và gần đất xa trời, tức ở độ tuổi bao dung hơn. Chỉ hi vọng những tình tiết giết người như thế không còn xuất hiện trên báo chí nữa. Một khi sát hại được dùng như là một phương tiện để đạt được mục tiêu, thì mục tiêu đó chẳng có gì là cao cả.NVT Giáo sư Nguyễn Văn Bông qua lời kể của tác giả Trần Văn Chi. Những ai may mắn gần gũi với Nguyễn Văn Bông chắc còn nhớ lúc mới về Sài Gòn, còn ở tạm tại một khách sạn nhỏ trên đường Kỳ Ðồng, ông thạc sĩ độc thân, đẹp trai hồn nhiên mặc chiếc áo thun rách 3 lỗ ra tiếp đón bà con bạn bè đến mừng! Nguyễn Văn Bông mộc mạc, thiệt thà, đơn giản, là con người “trước sao, sau vậy”. Rồi ông được mời giảng dạy chánh thức tại đại Học Luật Khoa Saigon, đến 15 Tháng Mười Một năm 1964 được cử làm viện trưởng Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Nguyễn Văn Bông vẫn vậy.Ðối diện với ông trên bộ ghế salon bằng gỗ cũ kỹ tại căn nhà của ông do nhà nước cấp, trước trường Nữ Trung Học Gia Long vào thập niên 70, tôi nói chuyện với ông như người anh em, người đồng hương, người “bạn tri kỷ”, dầu tôi với ông cách biệt tuổi tác và địa vị.Ðó là cái lớn của Nguyễn Văn Bông mà tôi ít tìm thấy nơi những tri thức cũng như chánh khách mà tôi hân hạnh tiếp xúc lúc bấy giờ.Làm viện trưởng Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, nơi đào tạo những con người lãnh đạo đất nước, những ông chủ quận, chủ tỉnh, quan chức cao cấp… nhưng Nguyễn Văn Bông không coi mình là quan chức. Ông trước sau chỉ là người thầy, người anh, người bạn với mọi người kể cả học trò của ông.Ông Nguyễn Văn Bông từ Pháp về nước lúc tình hình chánh trị ở miền Nam Việt Nam đang trong thời kỳ xáo trộn: 18 trí thức nhóm Tự Do Tiến Bộ bị đàn áp, do ngày 26 Tháng Tư năm 1960 nhóm này cho phổ biến tuyên ngôn yêu cầu chánh phủ cải tổ; Phật Giáo chống lại chánh sách kỳ thị tôn giáo của chính quyền Ngô Ðình Diệm lên cao điểm với vụ tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Ðức tại ngã tư Lê Văn Duyệt- Phan Ðình Phùng lúc 11 giữa trưa ngày 11 Tháng Sáu năm 1963…Nguyễn Văn Bông dầu được chánh quyền mời về, nhưng ông không e dè đăng đàn thuyết trình đề tài “Ðối lập chánh trị trong chế độ dân chủ” ngày 1 Tháng Tám năm 1963, nhân buổi lễ khai giảng năm học, trước cử tọa gồm viện trưởng, khoa trưởng, giáo sư cùng hàng ngàn sinh viên. Không kể nội dung bài thuyết trình, thái độ của người thầy Nguyễn Văn Bông đã làm cho sinh viên cùng đồng sự của ông nể trọng, kính phục. Ðó là đức độ kẻ sĩ. Và mấy ai làm được?Ông không chọn thái độ ở ẩn như Phan Văn Trị, từ quan như Vũ Văn Mẫu. Lối xuất sử của Nguyễn Văn Bông làm cho ông trở thành con người nổi trội bấy giờ.Sau Cách Mạng 1 Tháng Mười Một, ông đảm nhận các chức vụ viện trưởng Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, cố vấn cho Tối Cao Pháp Viện, ủy viên Hội Ðồng Quản Trị Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam. Tới lúc này ông Viện Trưởng Nguyễn Văn Bông vẫn thường về quê, tìm món khô “hắc cấy”, món ngon đặc sản Vàm Láng của ông. Nghe ông thích thú kể chuyện con hắc cấy, chuyện làm gỏi da cá đuối mà tưởng chừng đang nói chuyện với lão nông, hay người đánh cá. Cung cách Nguyễn Văn Bông đã thâu hút mọi người và làm mọi người đến với ông. Rồi ông được mời hoạt động, làm chánh trị, bởi anh em thấy ở ông cái đức độ của con người lãnh tụ thật sư, có tấm lòng, có cái Tâm. Ông làm chánh trị như nhà tu hành thiền. Tôi ám sát người sắp làm thủ tướng Sài Gòn (Dân Việt) – Trưa 10.11.1971. Một tiếng nổ long trời tại ngã tư Cao Thắng – Phan Thanh Giản khiến ông Nguyễn Văn Bông – Giám đốc Học viện Quốc gia Hành chính, người chuẩn bị nắm chức thủ tướng (ngụy) chết tại chỗ. NTNN trân trọng giới thiệu bài viết của ông Vũ Quang Hùng – người đã theo dõi, lên phương án tấn công và trực tiếp dự trận đánh này. Vào cuộc Trung tuần tháng 10 năm 1971, ngay sau khi nhận lệnh của cấp trên về mục tiêu cần diệt là Giáo sư Nguyễn Văn Bông, việc đầu tiên là tôi điểm lại tất cả anh chị em trong đội do tôi (Vũ Quang Hùng, bí danh Ba Điệp) làm đội trưởng. Đội trinh sát võ trang mang bí số S1 hoạt động nội thành Sài Gòn-Chợ Lớn thành lập chưa đầy một năm, gồm 11 người (kể cả tôi). Tôi nhớ dặn dò của đồng chí Tám Nam – Phó ban An ninh T4 (tức khu vực Sài Gòn-Gia Định): “Để bảo đảm bí mật, chúng ta sẽ đặt cho mục tiêu bí số G.33. Cần giữ bí mật đến phút chót và theo tin tức tình báo, G.33 đang chuẩn bị lên nắm ghế thủ tướng. Nếu G.33 đã nắm chức, sẽ rất khó hành động vì khi ấy việc bảo vệ ông ta sẽ khác hẳn. Và nếu tình huống này xảy ra, cách mạng có thể gặp khó khăn hơn bởi Nguyễn Văn Bông là một trí thức có uy tín và chính quyền ngụy chuyển từ quân sự sang dân sự mọi diễn tiến sẽ có lợi cho địch”. Giáo sư Nguyễn Văn Bông là thạc sĩ công pháp quốc tế đầu tiên của Việt Nam, tốt nghiệp tại Pháp, đang nắm chức Giám đốc Học viện Quốc gia Hành chính, đồng thời là Chủ tịch Phong trào Cấp tiến, một tổ chức chính trị chống cộng. Tôi quyết định tự mình trinh sát mục tiêu, đề ra phương án hành động. Mặt khác, tôi chuẩn bị vũ khí để thực hiện trận đánh. Sau khoảng nửa tháng bám sát mục tiêu, tôi hầu như nắm chắc quy luật đi lại của G.33: Buổi sáng ra khỏi nhà hơi thất thường, có khi không tới chỗ làm. Nhưng hễ đã vô Học viện Quốc gia Hành chính là thế nào ông ta cũng rời Học viện lúc 11 giờ 45 để trở về nhà. Lộ trình từ Học viện về nhà cũng không bao giờ thay đổi: Theo đường Trần Quốc Toản (nay là 3.2), quẹo phải qua Cao Thắng, đến ngã tư Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ) thì rẽ trái. Tôi cũng nói thêm về việc bảo vệ ông Bông vào thời gian này. Ông di chuyển trên xe hơi Ford Falcon màu đen. Ngồi trên xe hơi luôn có một cận vệ. Chạy theo bảo vệ xe hơi của ông thoạt đầu có hai xe gắn máy, nhưng từ sau khi báo chí đăng tin ông có thể lên nắm chức thủ tướng, số xe gắn máy tăng lên từ ba tới bốn chiếc, mỗi xe đều chở đôi. Đầu tháng 11.1971. Tôi trình bày vắn tắt ba phương án hành động rồi gửi về căn cứ đặt tại An Phước, Bến Tre. Đã đến lúc tìm người cụ thể bắt tay hành động. Tôi gặp Năm Tiến – đội phó S1, trao đổi tình hình và yêu cầu, hỏi anh ta có dám “vào trận” hay không, tuy vẫn chưa cho biết đối tượng cũng như phương án tấn công nhằm bảo đảm bí mật. Năm Tiến hăng hái nhận lời, nói Tư Xá, một trinh sát trong đội, cũng đang nóng lòng chờ xuất quân. Cũng cần nói thêm, lúc này tôi đã có 6 trái lựu đạn “da láng”, thêm khẩu Colt 45. Cho nên, trong thư gửi về căn cứ tôi viết nếu chấp nhận phương án ba (ném lựu đạn, mìn DH vào xe của G.33 tại ngã tư Cao Thắng – Phan Thanh Giản) và chỉ cần gửi cho tôi trái DH khoảng 5kg.Trên nhất trí duyệt phương án 3 đồng ý cả đề xuất nhân sự, hẹn tôi ngày, giờ cụ thể đón giao liên để nhận mìn định hướng. Tình huống ngoài dự kiến Tôi cũng tính toán thật chính xác thời gian khoảng từ khi tháo chốt đến khi lựu đạn nổ, thừa đủ thời gian cho trinh sát thoát thân. Vậy là trong óc tôi hình thành cách cấu tạo khối chất nổ: Vì trinh sát hóa trang làm sinh viên nên sẽ hết sức tiện lợi khi mang theo cặp da, trong đó chứa vừa lựu đạn, vừa trái DH. Tôi quyết định luôn “ngày D” để báo cáo về căn cứ: Đó là ngày 9.11. Vừa nhận trái DH từ căn cứ gửi lên, tôi mua ngay một cặp da và cuộn dây kẽm, mang về gác trọ bắt tay vào việc. Ba lựu đạn da láng cùng trái DH gọn gàng nằm trong cặp. Tuy đã dùng nhiều sợi dây thun cột càng lựu đạn, tôi vẫn chỉ tháo bỏ chốt chính, và dự định khi trao cho Năm Tiến, tôi sẽ dặn kỹ anh ta chỉ kéo bỏ chốt phụ ngay trước giờ hành động. Riêng trái lựu đạn dùng làm “ngòi”, tôi chỉ thay chốt phụ bằng cọng dây kẽm, chốt chính vẫn giữ lại, và việc này cũng phải chờ đến phút chót. Đến ngày 8 tôi mới nói với Năm Tiến đối tượng cần tấn công cũng như toàn bộ kế hoạch. Cặp da chứa chất nổ và khẩu Colt 45, tôi sẽ trao cho Năm Tiến vào 9 giờ sáng ngày hôm sau, vừa đủ thời gian để anh và Tư Xá kiểm tra kết cấu chất nổ và cách sử dụng. Tôi hẹn gặp Năm Tiến tại một quán cà phê, rồi mới đưa anh ta tới địa điểm cất giấu vũ khí. Tiếp theo Năm Tiến sẽ gặp Tư Xá trao đổi lại toàn bộ sự việc và liền đó hai người bắt tay làm nhiệm vụ… Nhưng thật bất ngờ, vào phút chót Năm Tiến báo tin Tư Xá xin rút, và cả anh ta cũng rút luôn vì không mấy tin tưởng thành công của trận đánh. Lúc này lòng tôi rối bời. Các đồng chí trong căn cứ sẽ nghĩ sao? Kế hoạch đã lên nay không thực hiện, không lẽ chỉ là một ý nghĩ viển vông, lý thuyết suông? Nếu không nhanh chóng thực hiện phương án, qua ít ngày nữa, ông Bông lên nắm chức thủ tướng, khi ấy nếu muốn diệt mục tiêu chắc chắn phải trở lại từ đầu, kể cả khâu trinh sát. Lúc này tôi không có ai để bàn bạc, tham khảo ý kiến, mà phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Cuối cùng tôi quyết định tiếp tục hành động. Vấn đề là tìm người thực hiện cụ thể.Trong đội trinh sát S1 thực tế tôi chỉ còn lại Châu. Nguyên là sĩ quan quân đội, đương nhiên Châu quen với lựu đạn, súng. Và đây là điều hết sức thuận lợi nếu anh ta làm trinh sát số hai – người quăng chất nổ.Còn trinh sát số một – người chạy xe gắn máy chở trinh sát ném lựu đạn? Phải thành thực nhận định, không ai thuận lợi bằng tôi: Biết rành cũng như nắm vững quy luật đi lại của đối tượng; và hơn hết, đã quen với con hẻm dẫn ra khỏi hiện trường. Vả lại, tôi cũng không thể tìm đâu ra người trong thời gian cấp bách. Tôi lập tức tìm gặp Châu. Rút kinh nghiệm Năm Tiến, tôi chưa vội trao đổi cụ thể với Châu, mà chỉ hỏi anh dám tham gia một trận đánh tại nội thành có thể nguy hiểm đến tính mạng hay không? Tôi nhớ Châu chỉ hỏi lại ngoài anh ta ra còn ai cùng dự trận, và khi tôi trả lời còn một người nữa là tôi, anh đồng ý ngay. Tôi hẹn sáng ngày mai, lúc 10 giờ trưa, sẽ gặp lại anh giao nhiệm vụ và vũ khí cùng lúc, để thực hiện luôn vào buổi trưa cùng ngày… Đúng 10 giờ sáng hôm sau, ngày 10.11.1971, tôi chở Châu đến nơi cất giấu vũ khí. Tại đây, tôi kể lại toàn bộ tình hình cho Châu nghe, từ chỉ thị của cấp trên, việc trinh sát đối tượng, phương án đánh, đến vũ khí sử dụng. Chỉ đến khi Châu hỏi “vậy vũ khí đâu?”, tôi mới lôi cặp da ra. Tôi mở cặp da, để Châu tận mắt thấy trái mìn DH và 3 lựu đạn da láng, trong đó 2 đã được rút chốt chính và cột bằng dây thun, trái thứ 3 còn nguyên chốt chính trong khi chốt phụ đã được thay bằng cọng dây kẽm và đầu kia của dây kẽm xuyên qua cặp da, cột vào quai xách. Còn khẩu Colt 45, tôi giắt vào bụng mình để Châu không bị trở ngại khi hành động và khi chạy, dặn vạn bất đắc dĩ Châu mới thọc tay vào bụng tôi, rút ra sử dụng. 11 giờ 15, tôi chở Châu lên đường. 11 giờ 25, tôi tấp xe vào quán nước đối diện Học viện. Còn Châu xách cặp làm bộ đứng chờ xe buýt tại trạm gần quán. 11 giờ 40, tôi trả tiền. Đúng 11 giờ 45, phía trong Học viện có bóng người chuyển động về hướng xe hơi. Dù cố trấn tĩnh, tim tôi vẫn đập rộn ràng. Tôi lập tức rời quán, lên Honda, nổ máy, chạy chầm chậm. Châu đã thấy tôi, bước đến sát mé đường. Ba-ri-e ngoài cổng Học viện hạ xuống, chiếc Ford Falcon lao ra rất nhanh, đến nỗi tôi vừa dừng xe đón Châu thì xe hơi đã quẹo ra đường Trần Quốc Toản; và khi Châu lên ngồi trên yên sau Honda thì xe hơi đã vượt qua xe tôi, 3 xe gắn máy chở đôi bám theo. Không hiểu sao lúc này tôi lại tự nhiên hết hồi hộp mà thanh thản một cách kỳ lạ. Tôi tự nhủ không nên chạy sau xe Ford Falcon, vì có thể sẽ bị đám cận vệ phát hiện, nên tăng ga. Chiếc Honda 67 lướt rất êm, vừa tới ngã ba Cao Thắng đã qua mặt xe hơi. Honda vẫn chạy trước xe hơi khoảng 5-6m, và cách ngã tư Cao Thắng – Phan Thanh Giản chừng 15m thì đèn tín hiệu giao thông chuyển sang màu đỏ. Tôi dừng Honda để Châu bước xuống, còn tôi vòng Honda qua bên kia đường, đầu xe nhắm ngay con hẻm, gài số một. Phía trước mặt tôi, hơi chếch về bên mặt, là tấm kiếng lớn của một xe hủ tíu-mì. Tôi quan sát phía sau qua tấm kiếng lớn này. Châu vừa xuống xe thì chiếc Ford Falcon cũng vừa ngừng. Châu tấp vô lề, vòng ra phía sau xe hơi, quăng cặp da xuống ngay gầm xe bên phải, rồi nhanh như chớp, chạy băng qua đường. Đúng lúc Châu chuẩn bị nhảy lên ngồi trên yên Honda thì một tiếng nổ long trời lở đất vang lên, cùng với cột lửa khói vụt bốc lên cao từ chiếc Ford Falcon. Một làn hơi mạnh thổi tạt đến tận chỗ tôi vừa lúc Châu tót lên yên và tôi lập tức siết tay ga, nhả tay côn hết sức nhịp nhàng. Chiếc Honda như muốn cất cao đầu, lao nhanh vào con hẻm… Khoảng nửa giờ sau ngồi trong gác trọ, nghe Đài Phát thanh Sài Gòn thông báo Giáo sư Bông đã bị ám sát, chết tại chỗ, tôi mới trấn tĩnh trở lại… Vũ Quang Hùng Bà Jackie Bông-Wright nói về vụ ám sát GS Bông LTS: Nhân ngày 30/4/2011, báo chí Việt Nam có đăng lại thành tích ám sát Giáo sư (GS) Nguyễn Văn Bông 40 năm trước của 2 biệt động Sài Gòn là Vũ Quang Hùng và Lê Văn Châu. Ông Hùng sau này trở thành nhà báo, từng giữ chức phó Tổng biên tập báo Công an Tp. HCM chính là tác giả của bài viết “Tôi ám sát người sắp là thủ tướng Sài Gòn“. Trong bối cảnh chống khủng bố, Mỹ mở chiến dịch tiêu diệt Bin Laden bài báo bị một số diễn đàn “lề trái” cho là “phản cảm”, “khó nuốt”. Đàn Chim Việt đã có cuộc phỏng vấn với bà Lê Thị Thu Vân, vợ góa GS Bông. Sau năm 1975 bà tái giá với một nhà ngoại giao Hoa Kỳ là Lacy Wright và lấy tên là Jackie Bong- Wright. ——————————————————- Mạc Việt Hồng (MVH): Thưa bà, vừa rồi, nhân kỉ niệm 36 năm ngày “giải phóng miền Nam”, thống nhất đất nước, một vài tờ báo đã đăng lại vụ ám sát Giáo sư Nguyễn Văn Bông, bà có đọc những bài báo này không và các chi tiết trong đó có gì khác so với những điều bà đã biết từ trước tới nay ? Bà Jackie Bong- Wright (JBW): Đây là lần thứ nhì ông Vũ Quang Hùng viết bài báo kể lại những chi tiết hào hùng do ông dàn dựng và chủ mưu để ám sát GS Nguyễn Văn Bông. Lần đầu tiên ông kể lại trên một tờ báo Sài Gòn cách đây 12 năm. Việc làm có kế hoạch chặt chẽ của một tổ chức chuyên môn thực hiện ám sát theo lệnh Hà Nội cho thấy đây là một âm mưu có tính toán tinh vi. Cách đây hơn 2 năm tôi có dịp gặp và phỏng vấn luật sư Phạm Văn Hùng ở San Jose, người đã bênh vực cho anh Vũ Quang Hùng. Luật sư kể lại cho tôi biết những lời biện hộ nào mà ông đã xin Tóa án tha cho những kẻ sát nhân, nhưng cảnh sát VNCH có bằng cớ nên 2 anh Hùng, Châu và đồng bọn phải đi tù. MVH: Cũng có một số phản ứng, nhất là trên các trang ‘lề trái’ cho rằng việc đăng tải theo kiểu ca ngợi chiến công của những kẻ đánh bom này thật là phản cảm và khó nuốt trong bối cảnh chống khủng bố hiện nay, ý kiến của bà như thế nào? JBW: Ở một số quốc gia hải ngoại và cộng đồng người Việt tại Mỹ, Tây Âu… họ đau buồn tưởng niệm tháng Tư đen vì CS không tôn trọng những khế ước quốc tế đã ký kết trong hiệp định Paris năm 1973. Họ còn lường gạt tất cả để chiếm đánh miền Nam và nhuộm đỏ cả 2 miền Nam bắc theo chủ nghĩa CS. Họ cũng trả thù và giam giữ hàng trăm ngàn người trong các trại học tập cải tạo, giết chết không biết bao nhiêu mạng người. Nay họ lại tuyên dương công trạng những kẻ sát nhân, khủng bố giết hại dân lành. Họ còn nhân đó khen tặng những kẻ khủng bố, thật là một việc làm thất nhân tâm. Tôi đau buồn trước chính sách vô luân lý, vô đạo đức này. MVH: Có thể nói quan niệm về khủng bố đã thay đổi theo thời gian. Ở vào thời điểm Giáo sư Bông bị ám sát, trên thế giới cũng xảy ra nhiều vụ tương tự, như vụ ám sát Tổng thống Kennedy hay vụ ám sát gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm v.v. và Việt Nam khi đó đang trong tình trạng chiến tranh, vậy có nên có cái nhìn thích hợp hơn trong bối cảnh như vậy? JBW: Từ cổ đến kim, việc sát hại, ám sát các nhân vật khác tư tưởng, khác đường lối, khác nếp sống với mình đã được áp dụng từ thời đóng đinh chúa Giê- su, hay đâm dao vào nhà lãnh đạo Caesar… rồi tới việc giết hại TT Ngô Đình Diệm, Kennedy. Cho tới nay cái vòng luẩn quẩn đó vẫn tiếp tục, có điều các cuộc ám sát khủng bố được thực hiện một cách tinh vi hơn. Không phải trong bối cảnh chiến tranh mới có việc ám sát lãnh tụ của một đảng hay một chính quyền nào đó. Lòng hận thù, ganh tị, gian ác là nguyên nhân cơ bản. Trong bối cảnh nào, đây cũng là việc dùng bạo lực giết hại người khác. MVH: Khi vụ ám sát xảy ra bà và các con đang ở đâu và cuộc sống tiếp theo sau đó diễn ra như thế nào? JBW: Khi vụ ám sát GS Bông xảy ra cách đây 40 năm thì tôi 30 tuổi và có 3 con, 2 cháu 6 tuổi (sinh đôi) và 1 cháu 4 tuổi. Tôi dọn ra khỏi ngôi nhà mà chính phủ cấp cho rồi về ở với mẹ tôi. Tôi cũng đưa mẹ GS Bông và 2 em cùng mẹ khác cha của GS Bông về sống chung với chúng tôi. Tôi không còn đi dậy Pháp văn như 4 năm trước đó mà chuyển sang làm Giám đốc Văn hóa hội Việt- Mỹ để tổ chức các cuộc hội thảo, các buổi thuyết trình, các cuộc triển lãm tranh và ảnh, các buổi trình diễn văn hóa nghệ thuật.Từ đó tôi bắt đầu tranh đấu cho các quyền của nữ lao động như tiền lương, quyền nghỉ nhiều hơn sau khi sanh con. Tôi cũng tranh đấu với quốc hội của VNCH để thay đổi một đạo luật có từ thời Pháp thuộc. Vì thế mà năm 1974 đạo luật được thông qua cho phép phụ nữ được áp dụng các biện pháp ngừa thai và có quyền quyết định thời gian cũng như số lần sinh nở. Nhưng tôi chống lại việc phá thai. MVH: Trong bài báo kể trên, phía cộng sản đưa ra lý do ám sát Giáo sư Bông vì ông là một trí thức có uy tín và có thể trở thành thủ tướng dân sự của VNCH và điều này gây khó khăn cho ‘cách mạng’ nên họ loại bỏ ông? Bà có biết chuyện ông sắp thành thủ tướng và có cảm nhận thấy những nguy hiểm với gia đình mình không? JBW: Sau khi Ngoại trưởng Henry Kissinger thăm viếng Việt Nam lần đầu tiên và gặp GS Bông thì báo chí cũng như chánh trị gia đều ủng hộ GS Bông, một nhà trí thức trong sạch, chống tham nhũng, bất công, một người yêu nước chống cộng lên làm thủ tướng để thay đổi guồng máy, làm quốc gia dân chủ và nhân quyền hơn.Vì thế mà CS phải thủ tiêu bằng được nếu không thì “cách mạng” của họ không thành công được vì GS Bông sẽ được lòng của dân chúng. Một ngày sau khi SG Bông chấp nhận làm thủ tướng thì nhóm T4 của Vũ Quang Hùng ra tay ám sát để loại đi một đối thủ mà họ khó có khả năng chống lại nổi. Trước đó, tôi cũng nhận được những cú điện thoại hăm dọa và bản thân GS cũng đã một lần bị ám sát hụt tại trường Hành Chánh Quốc Gia năm 1968. MVH: Trong bài viết của ông Nguyễn Văn Tuấn liên quan tới sự việc này, ông Tuấn nói, bà đã tố cáo ông Trần Thiện Khiêm, người sau này làm thủ tướng là thủ phạm giết hại ông nhà, vậy điều này có đúng không, thưa bà? JBW: Trong lúc đang tang gia bối rối thì có 2 nhà báo đến phỏng vấn tôi. Tôi có nói rằng, tôi không biết ai đã giết hại chồng tôi vì không có bằng chứng gì cả. Sau đó thì có vài tờ báo ở Sài Gòn cho là tôi tố cáo phe quốc gia và thủ tướng Trần Thiện Khiêm giết hại chồng tôi. Tôi đã xin quý vị đó đưa ra bằng cớ hay là CS muốn gieo vào đầu những người miền Nam tư tưởng lệch lạc để tiếp tục chia rẽ. MVH: Bà có viết một cuốn hồi ký, “Autumn Cloud, From Vietnamese War Widow to American Activist”, rất tiếc tôi chưa hân hạnh được đọc cuốn sách này, nên xin hỏi, vụ ám sát chiếm vị trí ra sao trong cuốn hồi ký của bà? JBW: Trong cuốn hồi ký “Mây Mùa Thu” được xuất bản năm 2001, có chương IV là “Ám sát và cảnh góa bụa“. Ở chương này, tôi có kể từ năm 1963, sau khi tôi đi du học ở Pháp về và bắt đầu cuộc sống chung với GS Bông (tr 121) và sau đó là vụ ám sát (tr 148-156). Tôi có kể về những cương lĩnh và hoạt động của GS Bông để đi tới việc thành lập Phong trào Quốc gia Cấp tiến đối lập với chính phủ của TT Nguyễn Văn Thiệu mà vẫn giữ vững lập trường chống cộng và chống tham nhũng. Sau đó tôi có kể những ai có thể đã giết GS Bông và kết luận rằng đó là việc làm của CS. MVH: Vụ ám sát chắc chắn đã tác động lớn tới cuộc đời của bà và các con nhưng có phải vì nó mà bà trở thành người hoạt động xã hội và tranh đấu cho nhân quyền ở Việt Nam? JBW: Chắc chắn vụ ám sát đã tác động mạnh tới cuộc đời của tôi. Mất chồng, miền Nam bị cưỡng chiếm, mất tất cả sự nghiệp và phải làm lại cuộc đời ở tuổi 35 trên mảnh đất Hoa Kỳ. Điều đó làm tôi thấy phải tranh đấu gấp bội hơn khi còn ở Việt Nam. Có những người bị bệnh tới đứt mạch máu hay tâm thần nhưng tôi không trốn được cuộc đời vì còn các con nhỏ dại nên phải sống vì tương lai của các cháu.Vì thế tôi phải vượt qua tất cả khó khăn và tìm giải pháp tranh đấu không những cho tôi và gia đình mà còn cho xã hội tôi đang sinh sống. Tôi tiếp tục con đường GS Bông đã vạch ra, tôi giúp định cư những thuyền nhân tỵ nạn, giúp họ có công ăn việc làm ổn định. Sau đó, tôi muốn họ có tiếng nói và sức mạnh với chánh quyền và quốc hội Hoa Kỳ để họ bênh vực cho những người dân thấp cổ bé họng ở Việt Nam.Tôi cũng bênh vực cho những nữ công nhân xuất khẩu lao động của VN để họ không bị bóc lột và tham gia những chương trình giúp trẻ em được giáo dục tối thiểu để tránh bị buôn bán ra nước ngoài làm nô lệ. Tôi chỉ là giọt nước trong mênh mông mà thôi. Nhưng nếu có cả trăm triệu giọt nước cùng hợp sức thì sẽ thành một biển cả bao la để thay đổi chế độ hiện nay ở Việt Nam. MVH: Kể từ năm 1975 bà và các con có về thăm Việt Nam không? Ai là người hương khói và chăm sóc mộ phần cho cố Giáo sư Bông? JBW: Các con tôi có về thăm mồ mả và quê hương. Còn tôi chỉ về Việt Nam khi nào tôi bỏ được một lá phiếu tự do, có tính dân chủ để chọn người tài giỏi lãnh đạo đất nước.Ở Việt Nam tôi có nhờ một người cháu họ nhang đèn trong chùa cho di cốt của GS Bông cho tới năm 2005. Sau đó tôi nhờ bà chị thứ tám của tôi về VN đưa di cốt của GS Bông sang Hoa Kỳ. Gia đình chúng tôi cùng hội Cựu sinh viên trường Hành Chánh Quốc Gia miền Đông Hoa Kỳ đã mời hơn 200 người đại diện cho các hội đoàn và bạn bè tham dự lễ An vị của GS Bông tại nghĩa trang Phật Giáo ở Falls Church, Virginia. Từ đó tôi và các con chăm sóc hương khói vì chúng tôi sống gần đó. MVH: Khi bà tái giá với tên Mỹ là “Jackie” và họ chồng là “Wright”, bà đã bỏ hết họ tên của mình “Lê Thị Thu Vân” nhưng vì sao bà lại lấy thêm chữ “Bông”? Vừa rồi trên mạng có một cuộc tranh cãi và có người cho rằng, bà làm vậy để gắn tên tuổi của mình với người chồng nổi tiếng một thời, bà nghĩ sao? JBW: Trước hết, việc tôi còn giữ tên Bông ghép vào với tên của chồng tôi hiện nay là quyền cá nhân của tôi, xin tất cả mọi người hãy tôn trọng. Đó là quyền tối thiểu của một người trong xã hội dân chủ.Hai nữa, trong cuốn hồi ký “Mây Mùa Thu” tôi có viết rõ tại sao những người bạn Mỹ ở Việt Nam từ thập niên 1960 tới 1975 thường gọi tôi là Jackie Bông. Vì họ không muốn khách sáo phải xưng hô là “Mrs. Nguyen Van Bong” hay “Mrs. Bong”.Ba nữa là sau khi qua định cư tại Hoa Kỳ năm 1975, thì ông bà Sandy McDonnell, Chủ Tịch McDonnell Douglas Aircraft, người bảo trợ đầu tiên của tôi chọn tên Mỹ cho các con của tôi để chúng đi học. Tên Mỹ dễ kêu hơn tên Việt dài và khó đọc cho người Mỹ. Chính ông Đại sứ Ellsworth Bunker, người bảo trợ của chúng tôi tại Hoa Thịnh Đốn đưa ra ý kiến đổi tên luôn cho tất cả 4 mẹ con tại Tòa án ở Virginia. Vì thế, tên tôi lúc đó được đổi thành Jackie (first name) va Bong (family name).Thứ tư, sau này khi tôi tái giá với ông xã tôi là Lacy Wright, người vẫn quen gọi tôi là Jackie Bong từ ngày còn ở Việt Nam đã cho phép tôi giữ lại chữ “Bông” và ghép vào tên “Wright”. Nếu ông xã không chịu thì tôi cũng đâu có làm được. Vậy là tôi dùng tên Jackie Bong-Wright từ khi chúng tôi cưới nhau đã 36 năm qua. Người Việt thường gọi tôi là “Jackie Bong”, còn người ngoại quốc thì biết tôi “Jackie Bong-Wright”. Nếu có ai khó chịu với cái tên này thì xin quý vị đó vui lòng “tha” cho tôi để tôi được dùng cái tên quen thuộc đã trở thành “bản sắc” của mình. MVH: Xin được hỏi một câu mang tính giả định, nếu bà gặp lại 2 người đã ám sát chồng bà là Vũ Quang Hùng và Lê Văn Châu thì bà sẽ nói gì với họ, liệu bà có tha thứ cho họ không? JBW: Nếu tôi gặp lại anh Vũ Quang Hùng và Lê Văn Châu, 2 người đã ám sát GS Bông thì tôi cũng vẫn giữ lập trường như xưa, khi còn ở Việt Nam là tôi sẽ tha thứ và cầu nguyện cho 2 người này cũng như “bề trên” của họ là đảng CSVN. Những cuộc ám sát đã làm nhiều người phía VNCH chết oan. Tôi chỉ mong sao những người có trách nhiệm lãnh đạo quốc gia sớm mở mắt, mở đầu óc, mở tấm lòng vị tha, thay đổi như thế nào để dân chúng được những quyền sống tối thiểu của con người và quốc gia được thực sự phát triển, 87 triệu người dân được yên lành. |

