Tự lực văn đoàn và “kách mệnh” (3 & 4)-Thuỵ Khuê

Bà Thuỵ Khuê

Tự Lực Văn Đoàn Văn học và cách mạng (3)

2- Sự thành lập Tự Lực Văn Đoàn và Phong Hóa

Phần II

Những ngày vuicủa Khái Hưng

Trở lại Ngày Nay số 16 (12-2-36) là tờ báo mà Tự Lực Văn Đoàn dồn toàn lực vào sau khi Phong Hóa bị đóng cửa vĩnh viễn, như để chứng tỏ: Chúng tôi chưa chết đâu. Trên tờ báo này, liền theo kịch Chết của Khái Hưng đăng ở trang nhất thay bài xã luận, là hai tiểu thuyết Những ngày vuicủa Khái Hưng và Lạnh lùngcủa Nhất Linh[1].

Lạnh Lùnglà một trong những tác phẩm chủ yếu của Nhất Linh, chúng tôi sẽ có dịp trở lại. Những ngày vui là tác phẩm thứ yếu của Khái Hưng, được viết trong bối cảnh Phong Hóa bị đe dọa đóng cửa; chắc hẳn với mục đích ghi lại “sự tích” Tự Lực Văn Đoàn, nếu một mai, tờ Ngày Nay cũng bị đóng cửa nốt.

Những ngày vui đăng trên Ngày Nay từ số 16 (12-7-1936) đến số 29 (11-10-1936), được nhà xuất bản Đời Nay in thành sách năm 1941. Nhà Phượng Giang tái bản ở Sài Gòn năm 1958. Bản in trên Ngày Nay số 20, Nguyễn Gia Trí vẽ cảnh Leung-Fat-Fa đang đứng bán hàng. 

Việc Nhất Linh cho in lại tác phẩm thứ yếu này của Khái Hưng, dường như ngoài ý ghi ơn ân nhân Leung-Fat-Fa Nguyễn Văn Tiên, người đã thầm kín giúp vốn để cải tổ Phong Hóa, còn muốn tưởng niệm Khái Hưng, vinh danh Nguyễn Gia Trí và nhớ lại những ngày vuithành lập Tự Lực Văn Đoàn thủa trước. 

Những ngày vui khi đăng trên báo Ngày Nay năm 1936, do Nguyễn Gia Trí minh họa. Bản Phượng Giang sửa vài chỗ, nhưng việc sửa chữa này có từ năm 1941, trên bản Đời Nay hay là Nhất Linh sửa năm 1958? Nhưng những chỗ sửa không quan trọng mấy. Tóm lại, Những ngày vuiđã được ba nhân vật chính: Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí và Nhất Linh viết, minh họa in lại, có thể với mục đích để lại dấu vết việc “khai sinh” Tự Lực Văn Đoàn cho đời sau. 

clip_image002

Những ngày vui, Ngày Nay số 20

Tóm tắt cốt truyện Những ngày vui

Phương [Khái Hưng] là con trưởng một gia đình giầu, Lan vợ chàng, con quan, nhà giầu chẳng kém gì nhà chàng. Những năm 1928-1930, ai về chơi đồn điền của Phương cũng phải kinh ngạc, đường đi rộng rãi, nhà cửa cao ráo, sáng sủa, bởi Phương đã cải tiến đời sống của dân làng. Nhưng cuộc khủng hoảng kinh tế xẩy ra, dân quê túng thiếu, vợ chồng chàng tìm cách giúp đỡ để nâng cao đời sống của họ. Thấy việc buôn sơn do người Tầu và người Nhật độc quyền, Phương nghĩ ra cách kinh doanh mới: trồng cây sơn và lập xưởng pha sơn để lấy lại nguồn lợi cho dân. Phương chuyển những nơi trồng mía, khoai, sắn, sang trồng sơn, lập nhà máy chế tạo. Chàng bỏ ra gần mười vạn bạc vốn, nhưng vì chưa có kinh nghiệm lại bị sự cạnh tranh kịch liệt của người Tầu và Nhật. Kết quả, bốn năm sau, đồn điền cùng các xưởng thợ, nhà máy của chàng đều bị chủ nợ tịch biên bán đấu giá. Phương khánh kiệt gia tài, phải về sống nhờ trong từ đường nhà vợ tại Lũng Thượng[2]. May được người bạn minh hương là Nguyễn Văn Tiên Léang fat Houa (khi in thành sách sửa là Leung-Fat-Fa) giúp đỡ. Leung-Fat-Fa Nguyễn Văn Tiên -khi còn nghèo khổ đã được Phương giúp cho mấy trăm bạc- muốn trả ơn chàng. Leung-Fat-Fa có một cuộc đời đầy thăng trầm, sóng gió, nhưng cuối cùng được hưởng gia tài của cha, người Tầu, chủ một hiệu tạp hóa lớn ở Hà Nội. Anh mượn Phương làm sổ sách, lương 30 đồng. Phương nhận lời, đưa gia đình rời Lũng Thượng về Hà Nội. 

Đến Hà Nội, Phương đang đi lang thang tìm nhà thuê, thì gặp lại Duy họa sĩ [Nguyễn Gia Trí] bạn thân, Duy cho biết đã thuê nhà sẵn cho Phương rồi. Nhà có 5 phòng, thuê 40 đồng một tháng. Hiện đã có Điển, thầu khoán, đến ở cùng. 

Sở dĩ Duy có tiền, vì chàng đanglàm đại lý bán xe hơi cho một hãng ô tô lớn, lương 50 đồng, cộng thêm hoa hồng mỗi chiếc xe bán được khoảng hai, ba chục bạc. Mỗi tháng Duy kiếm được từ trăm rưởi trở lên, hơn tiền bán tranh nhiều,vì thế Duy mới có tiền thuê nhà cho bạn ở để làm báo[3].

“Ngoài công việc bán ô tô, nếu còn thừa thời giờ Duy vẽ tranh. Còn Điển và Phương -tuy Phương bận bán hàng tạp hóa- sẽ cùng nhau theo đuổi công việc soạn văn, dịch sách, gửi đăng các tạp chí trước khi cho xuất bản.”[4]

Phương và Điển viết văn, dịch sách, Duy vẽ. Nhưng thức suốt bao đêm mà tác phẩm của hai “nhà văn” chẳng được báo nào đăng. 

Một hôm Duy dõng dạc tuyên bố:“Bài vở các anh cứ để đấy, sẽ có chỗ đăng”. Duy đã dụ được ông chủ hãng xe hơira một tờ báo nhà để quảng cáo các loại ô tô, khỏi cần gửi đăng quảng cáo ở các báo khác. Ông chủ bằng lòng, cho anh mỗi tháng 200 đồngtương đương với số tiền ông phải bỏ ra đăng quảng cáo trên báo. 

“Thế rồi ngày mồng một tháng mười, như lời “kính cáo”gửi cho các bạn đồng nghiệp. Tự Động ra số đầu “chào quốc dân.”Báo “Tự Động” là tờ báo đầu tiên bọn Phương làm với số tiền trợ cấp của ông chủ hãng ô tô. Nhưng báo Tự Độngkhông khá được, mặc dù Duy đã hết sức trổ tài “hùng biện,” đi các tỉnh để thuyết phục những vị chức sắc có tiền mua báo. 

Bỗng Phượng [Nhất Linh] xuất hiện (trong sách đổi tên là Phúc).Phượng là giáo sư cử nhân mới ở Pháp về,nổi tiếng với những “projet” dựng báo rất “hoành tráng” được chàng rao giảng khắp Hà thành. Phượng thuyết phục Leung-Fat-Fa Nguyễn Văn Tiên. Phượng thao thao bất tuyệt với Duy. Nhưng vì không có tiềnđể lăng-xê, Tự Động vẫn hoàn toàn bế tắc, nếu không có biến cố bất ngờ xẩy ra: Leung-Fat-Fa Nguyễn Văn Tiên bị bệnh nặng, thầy thuốc bó tay. Tiên gọi hai bạn Phương, Duy đến đề nghị biếu một vạnđể làm báo. Phương từ chối. Tiên bèn nghĩ cách khác:

… Tôi biết tôi sắp chết. Vậy trong chúc thư tôi nói cho các anh vay số một vạn bạc, bao giờ có tiền thì các anh trả lại cho vợ con tôi. Không bao giờ có tiền thì coi như món nợ ấy không có… Vậy các anh bằng lòng như thế nhé?”

Duy sợ Phương từ chối liền trả lời:

– Như thế thì có lẽ được.

Tiên vui mừng giơ hai tay ra bắt tay hai người…

Hai tuần lễ sau, báo Con Ngườicủa bọn Phương, Duy ra đời (sđd, trang 166).

*

Đây là tiểu thuyết, vậy có phần hư cấu. Nhưng chúng ta có thể loại bỏ dễ dàng những điều hư cấu để chỉ giữ lại những điểm phù hợp với thực tế: 

1- Khoảng 1928-1930, có thể Khái Hưng đã giúp dân cải tổ lại làng mình theo lối mới. Ông viết lại kinh nghiệm này trong 7 bài xã luận in trên Phong Hóa, từ số 80 (5-1-1934) đến số 87 (2-3-1934), tựa đề Một bản chương trình, chủ trương xây dựng lại nông thôn. 

2- Việc Khái Hưng buôn sơn là có thật, ông buôn với người bạn Nhật, việc này ông kể lại trong truyện ngắn Kong-Ko Đai-Jin, in trên Phong Hóa số 14 (22-9-1932). 

3- Về căn nhà Duy thuê cho Phương: Nhà có 5 phòng, thuê 40 đồng một tháng. Có thể làtrụ sở đầu tiên của Phong Hóa, ở phố Đường Thành, như Khái Hưng có nhắc lại ở một chỗ khác trong Những ngày vui; mà cũng có thể là căn nhà số 1 Boulevard Carnot, trụ sở chính thức của báo Phong Hóa từ số 1 (16-6-1932) đến số 126 (30-11-1934), toà soạn và trị sự mới chuyển về số 80 Avenue du Grand Bouddha(Quan Thánh). 

4- Việc Duy dụ được ông chủ bán xe hơi, bỏ tiền ra làm báo, phù hợp với việc ông Phạm Hữu Ninh (hiệu trưởng trường Thăng Long) hay ông Nguyễn Xuân Mai (Giám đốc sáng lập tờ Phong Hóa) “trợ cấp” cho bọn Phương 200 mỗi tháng để làm báo.

5- Có tiền 200 đồng, Phương Duy làm tờ Tự Động. Chữ Tự Độngnày có hai nghiã: chỉ tờ Phong Hóa từ số 1 đến số 13, khi Khái Hưng một mình tự biên tự diễn, và Tự Độngcũng chính là Tự Lực, hạt nhân đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn. 

6- Bỗng Phượng xuất hiện, Phượng là giáo sư cử nhân ở Pháp về, với những dự định làm báo lớn lao, thì đúng là Nhất Linh. Nhưng chưa có tiền, phải đợi đến khi Leung-Fat-Fa Nguyễn Văn Tiên, để di chúc cho một vạn, thì báo Con ngườimới ra được. Con ngườichính là tờ Phong Hóatừ số 14 trở đi. Số tiền 10.000 đồng là cái vốn để Nhất Linh cải biến hoàn toàn tờ Phong Hóa. 

Nếu cái chết đột ngột của Leung-Fat-Fa Nguyễn Văn Tiên và việc anh để lại số tiền lớn lao cho Tự Lựclàm báo, không được tự nhiên mấy, khiến ta có thể nghi ngờ, thì tôi xin đưa ra giả thuyết thứ nhì: tiền này phải chăng là tiền riêng của bà Khái Hưng, vì gia đình cụ thân sinh ra bà, Tuần phủ Lê Vân Đính, rất giầu, có biệt thự ở Sầm Sơn; bà lại được mẹ cho một số ruộng ở Hải Hậu?[5]Kể cả việc Khái Hưng thuê biệt thự 80 Quan Thánh làm cơ sở cho Phong Hóa Ngày Nay (và trụ sở Việt Nam Quốc Dân Đảng sau này) có thể cũng do vốn của bà Khái Hưng chăng? Dù sao chăng nữa, việc Phong Hóa có tiền để cái tổ tờ báo, là do nguồn Khái Hưng. 

Theo Những ngày vuithì Tự Động số 1, in 5.000 số, tiền in: 75 đồng, lương toà soạn kiêm trị sự bốn người hết 100 đồng. Linh tinh: 50 đồng. Tổng cộng, chi: 225 đồng. 

Tiền bán báo (trừ hoa hồng): 30 đồng. Tiền phụ cấp của hãng ô tô: 200 đồng. Tổng cộng: thu 230 đ. Lãi: 5 đồng (sđd, trang 112). 

Việc Tự Động số đầu ra 5.000, chắc là hư cấu, sự thật chắc chỉ có 3.000 số, vì Nhất Linh, trong bài Nói truyện cũ, trên Phong Hóa số 154, đã trích dẫn trong phần I, cho biết: “Lúc chúng tôi sắp nhận làm báo Phong Hóa thì các tuần báo không có vẻ thịnh vượng, ít tờ xuất bản được tới hai nghìn số. Chúng tôi lúc đó mong ba nghìn và đã tự cho là “tham lam vô độ”.

Còn tiền chi tiêu được kê khai có thể đúng với Phong Hóa thời kỳ đầu, từ số 1 đến số 13, khi còn nhận trợ cấp hàng tháng của ông Phạm Hữu Ninh hay ông Nguyễn Xuân Mai. 

Trên Phong Hóa số 58 (4-8-1933), có biên bản về Phong Hóa số 47 (19-5-1933) cho biết: PH 47 phát hành 10.150 số. Như vậy, nếu PH 14 (22-9-1932) in 3000 số, thì chưa đầy một năm sau, báo đã in hơn gấp ba lần số phát hành đầu tiên. 

Chân dung Khái Hưng 

Những ngày vuimô tả ba người: Khái Hưng “trong vai” Phương, Nguyễn Gia Trí trong vai Duy, Nhất Linh trong vai Phượng (khi in thành sách đổi là Phúc). 

Chúng ta biết rất ít về quãng đời trước khi làm báo của Khái Hưng. Nguyễn Tường Bách, em út Nhất Linh, một trong những người gần gũi Khái Hưng trong giai đoạn 1945-1946, viết:

Cuộc đời của Khái Hưng Trần Khánh Giư có thể gọi là kỳ lạ. Anh đã đậu Tú tài ban Triết học, độ ấy còn rất hiếm, nhưng không ra làm quan hay một công chức cao cấp nào, một việc rất dễ cho anh–ông thân sinh là Tuần phủ và nhạc phụ là Tổng Đốc. Tại sao không chạy một chân tri huyện, mà lại xoay sang làm nghề dạy học và nghề làm báo nghèo kiết bấp bênh? Một lần, tôi có gạn hỏi thì anh chỉ cười đáp:

– Cũng chẳng hiểu tại sao cả. Thích làm báo thì làm báo chớ sao?

Đó cũng là câu trả lời chung của mấy anh em.

Nghe nói, nhà tiểu thuyết xã hội, lãng mạn trước kia đã từng đi… buôn, làm đại lý cho một hãng dầu xăng, chắc muốn giầu to. Song chắc đầu óc nghệ sĩ không thích hợp lắm với lối buôn bán quắt quéo, nên chỉ thua lỗ (cũng may, nếu phát tài thì Việt Nam không có nhà văn Khái Hưng!)

Từ Ninh Giang[6]anh lên Hà Nội, làm giáo sư trường tư thục Thăng Long. Ngay hồi đó anh đã viết cho tờ Duy Tân những truyện vui hay xã thuyết, cùng với nhà văn Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, nhà văn Tchya[7]Đái Đức Tuấn, một số bài nữa đăng trên tờ Phong Hóa (cũ, trước khi sang tay Nhất Linh quản lý) và tờ Văn Học tạp chí của anh em Dương Bá Trạc.

Nhất Linh sau đó lại vào dạy trường Thăng Long. Hai người hiểu nhau rất nhanh, rất tâm đắc, có cái nhìn chung về xã hội, về văn học.”[8]

Đấy là Khái Hưng dưới mắt Nguyễn Tường Bách, người em út trong gia đình Nhất Linh. 

Trong Những ngày vui, Khái Hưng mô tả mình trong vai Đỗ Như Phương, nói quá lên một chút về gia cảnh: “Phương là con trưởng một gia đình cự phú”, còn gia tài chàng được hưởng chắc là không sai mấy: một cái ấp ở Phú Thọ rộng ba nghìn mẫu vừa ruộng vừa đồi và vài toà nhà cho thuê ở Hà Nội” và cả về người vợ cũng thế: “Lan, vợ chàng là con quan, nhà cũng giầu có chẳng kém gì nhà chàng”(sđd, trang 14). 

Hành động và tư tưởng của Phương thì đúng là Khái Hưng: ngay từ hồi trẻ, Phương đã hoạch định một chương trình xã hội để nâng cao đời sống dân quê, trước hết về nhà cửa đường phố:

Chàng nhờ một người bạn kiến trúc sư vẽ kiểu nhà thích hợp với dân quê, rồi bắt các nông phu điền tốt trong ấy làm theo. Nếu có quá tốn kém thì chàng chu cấp cho ít nhiều.

Hồi mấy năm 1928-1930, ai về chơi đồn điền của Phương cũng phải kinh ngạc, khi ngắm qua những đường đi rộng rãi, những phố xá sạch sẽ, và những lớp nhà lợp ngói, lợp tranh cao ráo, sáng sủa, hay khi tò mò để mắt tới những đứa trẻ y phục gọn gàng cắp sách đi học” (Những ngày vui, trang 15). 

Đọc những dòng này ta có thể tưởng tượng cảnh làng Cổ Am, quê Khái Hưng, trước khi bị Pháp dội 57 quả bom ngày 16-2-1930 và hiểu tại sao Khái Hưng chống Pháp. 

Nhưng cuộc khủng hoảng kinh tế [1929] ập tới, thóc lúa bị đình trệ không bán được, giá thóc gạo mỗi ngày một hạ, nông phu không kiếm đủ tiền ăn và tiền nộp thuế, nên bắt buộc phải trả lại ruộng cho chủ. Đất bỏ hoang, Phương bèn tính đến phương sách thứ hai: chàng quay ra trồng sơn ở đồn điền,bỏ vào 10 vạn rồi vay thêm ngân hàng bằng cách ký quỹ đồn điền. Lại thất bại. Phương mất cả đồn điền, thêm nợ nần, phải trở về sống nhờ ở từ đường nhà vợ. 

Trong lúc khó khăn này, chàng được Nguyễn Văn Tiên Leung-Fat-Fa, giúp đỡ, Phương đưa gia đình về Hà Nội, làm thủ quỹ cho hiệu Leung-Fat-Fa. Leung-Fat-Fa là hiệu tạp hóa lớn ở phố hàng Ngang của Nguyễn Văn Tiên Leung-Fat-Fa.Khái Hưng đã giải thích việc này như sau:

Lòng tử tế của Tiên tỏ ra rằng Tiên là một người Tàu, người Tàu thuộc thời Xuân Thu Chiến Quốc hay Tiền Hán, Hậu Hán. Không phải lòng tử tế của bọn phi thường, nhưng lòng tử tế Tàu kia.

Đối với Phương, Tiên tự coi như người chịu ơn sâu, đời đời không thể trả hết, và mấy trăm bạc Phương giúp chàng ngày xưa, chàng đặt ngang hàng với bát cơm của bà Phiếu Mẫu giúp Hàn Tín khi anh tể tướng còn hàn vi” (trang 94).

Như vậy, trong Những ngày vui, những nét đời thật của Khái Hưng lộ khá rõ, được sửa đổi và thêm thắt đôi chút, nhưng giữ nguyên nền chính: Khái Hưng và vợ đều là con quan. Ông đã từng lập xưởng kinh doanh sơn ở Phú Thọ và bị lỗ vốn. Việc buôn sơn được ông nhắc đến trong truyện ngắn Kong-Ko Đai-Jin.Sau đó ông ra Hà Nội dạy trường Thăng Long, gặp Nguyễn Gia Trí và Nhất Linh… Việc Nguyễn Văn Tiên Leung-Fat-Fa cho tiền để làm báo, đượcKhái Hưng coi là lòng tử tế của người Tầu, trả ơn bát cơm Phiếu Mẫu mà ông đã giúp Tiên ngày trước. 

Chân dung Nguyễn Gia Trí

Vào truyện Những ngày vui, Khái Hưng tả cảnh ba người bạn Ngạc, Điển, Duy và Xuyến, tình nhân của Ngạc, đi ô tô đến Lũng Thượng để dự lễ tiệc do Phương mời. Giữa đường, xe chết máy, Ngạc lúi húi cúi xuống hý hoáy tìm cách sửa. Trong khi ấy Duy đem bút chì và giấy ra vẽ.

Ngạc ngửng lên trông thấy, gắt:

– Trời ơi, anh còn vẽ được!

– Truyện! Chín năm “Mỹ thuật” của người ta!

Ngạc thì thầm bảo Điển:

– Động một tý là nó giở chín năm trường Mỹ thuật của nó ra.

Xuyến vừa soi gương bôi sáp môi vừa hỏi:

– Anh Duy học chín năm ở Beaux Arts thực đấy à?

Duy, giọng tự phụ:

– Lại chả thực!

Mà kể thì cũng thực.

Là vì học gần hết năm thứ hai và sau một cuộc cãi lý kịch liệt với giáo sư, Duy cáu tiết bỏ trường, tuy chàng là một thanh niên rất có hy vọng học.

Hai năm sau, một hôm gặp Duy đi lang thang trên đường vùng quê với đủ các họa cụ đeo trên lưng, ông đốc trường Mỹ thuật liền hỏi (thiếu mấy chữ)Duy nên lại vào trường tòng học.

Duy vâng lời. Nhưng đến năm thứ ba, được dăm tháng, vì một điều chẳng quan hệ mấy, Duy lại bỏ học.

Rồi ít lâu lại vào học. Lần sau cùng, Duy chính thức từ giã trường Mỹ Thuật, vì chàng trúng tuyển kỳ thi ra.[9]

Tính góp lại, thời kỳ học tập của Duy vừa đúng chín năm.

– Vô lý! Chín năm!

– Ấy là kể cả nghỉ hè nữa đấy chứ nếu không thì làm quái gì đủ chín năm.

Xuyến nghiêng đầu sửa mái tóc, mỉm cười hỏi:

– Anh học vẽ chín năm; chắc phải giỏi. Nhưng anh bắt đầu vào trường từ năm anh lên mấy?

– Từ năm mười bẩy, lúc ấy tôi vừa đậu thành chung. Vị chi năm nay tôi hăm bẩy. (…) 

– Này, nhưng chữa xe làm gì nữa, lại đây xem tranh của tôi hơn. Các anh phải biết “Một công trình tuyệt tác!”

Điển và Ngạc chán nản ngồi xuống vệ đường dưới bóng một cây đề lớn. Duy đem tranh lại khoe:

– Đó, các anh coi: Dã man không? Vô nhân đạo không?”[10]

Duy vẽ cảnh: hai người đàn bà lưng cúi gò, vai khoác dây thừng, kéo cái bừa do một người đàn ông đẩy.

clip_image004

Duy vẽ hai người đàn bà kéo cầy trên Ngày Nay số 16

Đoạn văn trên đây rất quan trọng, vì nó cho ta biết thêm về tiểu sử Nguyễn Gia Trí. Tuy nhiên nếu đặt nó vào bối cảnh năm 1932, khi Phong Hóa sắp ra đời, thì lúc đó Nguyễn Gia Trí chưa ra trường, Khái Hưng không thể đưa vào miệng Duy câu: Truyện! Chín năm “Mỹ thuật” của người ta!Câu này chỉ có thể nói năm 1936, khi Khái Hưng viết truyện này. 

Nhưng nếu bỏ qua chi tiết vô lý này, ta có thể rút ra một số thông tin về Nguyễn Gia Trí. 

Khái Hưng sinh năm 1896, Nhất Linh sinh 1906, còn Nguyễn Gia Trí, thường ghi sinh năm 1908; nhưng không ai biết chắc. Năm ông đỗ vào trường Mỹ Thuật cũng mù mờ: Sách Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội (1925-1990)ghi Nguyễn Gia Trí học khóa IV (1928-1933) rồi bỏ dở, trở lại học khóa VII (1931-1936). Theo thư Nguyễn Gia Trí gửi Mai Thọ Truyền[11], ta được biết: tình cờ đi xem hội chợ (1935) thấy tranh sơn mài của Trần Quang Trân đẹp, ông bèn quay về trường, học sơn mài. Theo Lê Phổ[12], Nguyễn Gia Trí học cùng lớp với Lê Thị Lựu, tức là khóa III (1927-1932). 

Theo Những ngày vui, Nguyễn Gia Trí vào trường Mỹ thuật năm 17 tuổi. Học chín năm (kể cả thời gian nghỉ). Những điều này chắc đã được Nguyễn Gia Trí kiểm lại, cho phép ta rút ra những nhận xét sau đây: 

1- Việc ông ra trường năm 1936, phù hợp với hoạt động của ông trong Tự Lực Văn Đoàn, vì kể từ năm 1936, Nguyễn Gia Trí vẽ tranh công khai và quyết liệt hơn thời kỳ chưa ra trường. 

2- Vì ông ra trường năm 1936, và ông học 9 năm (kể cả những lúc bỏ dở), vậy ông vào trường năm 1927, cùng lớp với Lê Thị Lựu, đúng như lời Lê Phổ. 

3- Năm 1927, ông 17 tuổi, vậy ta có thể cho rằng: Nguyễn Gia Trí sinh năm 1910. 

4- Theo Những ngày vui, Nguyễn Gia Trí bỏ học hai lần, vì cãi nhau với giáo sư (Tardieu). Lần đầu, năm thứ hai (1928) và lần sau năm thứ ba (1929). Tổng cộng thời gian “học” là 9 năm, vậy ông nghỉ học 4 năm trong khoảng từ 1928 đến 1936, vì mỗi khóa trường Mỹ thuật là 5 năm.

Như thế, vai trò của Nguyễn Gia Trí trong Tự Lực Văn Đoàn, không chỉ ở mức độ cộng tác thường xuyên mà còn ở chỗ khác nữa: có thể nhờ tiền bán tranh và sống độc thân, nên Nguyễn Gia Trí luôn luôn lo việc “kinh tài” cho Tự Lực Văn Đoàn và Quốc Dân Đảng. Trước tiên cho Phong Hóa, lúc mới thành lập, như Khái Hưng viết trong Những ngày vui. Rồi từ 1939-1940 ông mua và tích trữ vũ khí cho đảng Đại Việt Dân Chính, bị Pháp bắt quả tang để trong phòng vẽ, theo lời họa sĩ Hoàng Tích Chù[13]. Sau cùng, ông góp phần “nuôi” các đồng chí trong thời kỳ bôn ba ở Hương Cảng, những năm 1948-50, vẫn bằng hội họa của mình. 

Chân dung Nhất Linh

Trong Những ngày vui,Nhất Linh xuất hiện sau Nguyễn Gia Trí, trong vai Phượng. Khi in thành sách, đổi thành Phúc, có lẽ để tránh nhầm với Phương, nhưng lại làm trệch ý Khái Hưng: cố ý đặt tên Phượng đi với Phương như hai giọt nước, giống Khái Hưng và Nhất Linh ở ngoài đời. 

Và đây là đoạn Phượng đến gặp Duy,”chủ nhiệm” báo Tự Độngđể bàn chuyện “mở báo”:

– Chào ông chủ nhiệm.

Duy nghĩ thầm:

– Thôi chết tôi rồi. Ông này mà đến chơi thì chắc chắn là mất hết một buổi sáng nghe chuyện mở báo.

Như đọc được tư tưởng của Duy, ông khách hỏi luôn:

– Ông bận? Nếu ông bận, xin để khi khác tôi lại đến.

Duy muốn đáp: “Vâng quả thực tôi bận”, nhưng chàng chỉ mỉm một nụ cười rất tự nhiên giơ tay mời:

– Ông ngồi chơi. Thưa không, tôi không bận gì hết. Tôi rất vui lòng tiếp chuyện ông.

– Thưa ông hôm nay nghỉ?

– Vâng, hôm nay thứ năm.

– Báo của ông ra hôm nay, tôi vừa mua một số đây.

Vừa nói chàng vừa giơ ra một tập báo. Rồi cười nói tiếp:

– Ông đã biết đấy, tôi rất thích nghề báo, và báo nào tôi cũng mua, cũng đọc. Tôi đọc cả những truyện kiếm hiệp, kiếm tiên nữa. Nhưng tôi không mua năm báo nào hết. Tội gì phải không, thưa ông? Mình ở Hà Nội, nghe trẻ rao ngoài phố, gọi vào mua một số. Như thế có phải tiện không? Mà lại tránh được cái nạn mất báo, khỏi phải mất công viết thư lên toà soạn đòi số khác…

Chàng kéo một thôi về cái lẽ mất báo, về cách xếp đặt vụng về trong ban trị sự của hết thẩy các toà báo chữ Pháp, chữ Việt.

– Rồi ông xem, khi nào báo của tôi ra đời, ông sẽ thấy cách tổ chức khôn khéo hoàn toàn. Hiện giờ tôi đương ở thời kỳ điều tra, nhận xét, khảo cứu.

Chàng rút ra một quyển sổ con, nói tiếp:

– Đây này, ở cả trong này, “projet” mở báo ở cả trong này.

Duy rùng mình, lo sợ vì biết thế nào Phúc cũng đem cái kế hoạch mở báo ra nói cho mình nghe trong khoảng ít ra là một giờ đồng hồ. Ở Hà Nội, và ở tỉnh lỵ các thành phố Phúc đã đi qua, dễ trong hầu hết các giới trí thức, ít ai không một lần được nghe Phúc bàn về cái kế hoạch mở báo của chàng.

Phúc là một vị giáo sư khoa học có giá trị tại trường trung học. Chàng đã tòng học bốn năm ở bên Pháp và đã đậu cử nhân khoa học. Về nước, chàng được bổ ngay giáo sư và lương tháng kể cũng khá cao, có lẽ đến gần ba trăm bạc.

Nhưng trong thời kỳ học tập bên Pháp cũng như ngày nay trong thời kỳ dạy học, chàng chỉ chuyên nghiên cứu có một thứ báo chí. Chàng nói với hết thảy các bạn bè và những chỗ quen biết rằng nghề gõ đầu trẻ, chàng chỉ theo tạm, nghề chính của chàng là nghề viết báo, mở báo kia (Những ngày vuitrang 148-150).

Và Phúc còn thao thao bất tuyệt về nghề báo trong sáu trang sách nữa. 

Phúc thì đúng là Nhất Linh rồi: Giáo sư cử nhân mới ở Pháp về. Luôn luôn mơ tưởng việc làm báo và đi đâu cũng tuyên truyền việc lập báo. Mặc dù lương giáo sư khá cao, gần ba trăm bạc, nhưng Nhất Linh vẫn không đủ tiền để ra báo. 

Cuối cùng, phải nhờ đến số tiền 10.000 của Nguyễn Văn Tiên Leung Fat Fa, Nhất Linh mới có thể thực hiện được giấc mộng, kể từ Phong Hóa số 14. 

Những thành viên đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn

Theo sự sắp đặt nhân vật trong Những ngày vui, thì Nguyễn Gia Trí và Khái Hưng là hai người đầu tiên trong “nhóm” Tự Lực. Nhất Linh đến sau, việc này hư thực như thế nào, khó biết được, mà cũng không quan trọng. 

Chỉ biết ba hạt nhân đầu của Tự Lực Văn Đoàn là Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí và Nhất Linh. Tự Lực Văn Đoàn đã manh nha trong thời gian từ tháng 6-1932 đến tháng 9-1932, nghiã là từ Phong Hóa số 1 (16-6-1932) đến số 13 (8-9-1932) tức là thời kỳ chuẩn bị ra báo Phong Hóa số 14

Khi đọc kỹ Phong Hóa, chúng ta sẽ thấy rõ hai thời kỳ này, như đã được Khái Hưng mô tả trong Những ngày vui

Từ số 1 đến số 13: Phong Hóa do Khái Hưng chủ trì. 

Từ số 14 trở đi (nhờ số tiền 10.000 đồng) Nhất Linh tổ chức lại tờ báo, mở rộng với nhiều người cộng tác và ông làm Giám đốc. 

Nhưng hai thời kỳ này không hoàn toàn phân cách, bởi vì nếu tinh ý, ta sẽ thấy có những thành viên của Văn Đoàn đã xuất hiện trên Phong Hóa ngay từ những số đầu: 

– Phong Hóa số 2 (23-6-1932), bìa tranh trừu tượng, ký tên Đông Sơn bằng chữ Hán, bìa này giữ đến số 10 (18-8-1932). Nếu Đông Sơn là Nhất Linh, thì không thể nói Nhất Linh chỉ “vào” Phong Hóa từ số 14, mà “vào” từ số 2. 

– Phong Hóa số 3 (30-6-1932) có hý họa ký tên Đông Sơn bằng chữ quốc ngữ, cũng thế, Nhất Linh “vào” từ số 3 chăng? 

Vậy ta phải hiểu như thế nào? Theo tôi, những điều Khái Hưng viết trong Những ngày vuiphù hợp với thực tế hơn, còn những điều Nhất Linh và Tứ Ly viết trên Phong Hóa số 154, chỉ có tính cách tượng trưng, tuyên ngôn, tuyên cáo, cho nên ta hiểu tại sao Khái Hưng làm thinh, không tuyên bố gì trên số báo Phong Hóa 154 này. (Xem Sự thành lập Tự Lực Văn Đoàn,phần I) 

Bởi vì, nếu Nhất Linh chỉ “vào” Phong Hóa từ số 14, thì tranh bìa ký tên Đông Sơn chữ Hán từ số 2 và hý họa ký tên Đông Sơn quốc ngữ trong số 3, là của ai? 

Trừ khi Đông Sơn lúc đầu là Nguyễn Gia Trí? 

clip_image006

Tranh bià Đông Sơn, ký chữ Hán, Phong Hóa số 2

clip_image008

Tranh Đông Sơn ký chữ quốc ngữ trong Phong Hóa số 3

Tóm lại, trừ khi có khám phá mới, tôi tạm coi Đông Sơn là tên chung của Nguyễn Gia Trí và Nhất Linh trong thời kỳ đầu. Đến khi nào thì tách riêng và trở thành tên của Nhất Linh? Đó là một câu hỏi chưa thể giải đáp. 

Về văn, Nhất Linh dường như không viết gì cho Phong Hóa từ số 1 đến số 13, nếu xét giọng văn và tư tưởng. Ông chính thứcxuất hiện cùng với Tứ Ly (Hoàng Đạo) và Tú Mỡ, trên Phong Hóa số 14 (22-9-1932), số báo chính thứccủa Tự Lực Văn Đoàn. Thạch Lam cũng viết từ số 14, với tên TL và số 15, với tên Việt Sinh. 

Trường hợp Thế Lữ khá phức tạp, ông có ba bài in trên Phong Hóa những số đầu, ký tên Nhất Chi Mai: tạp văn Quần trắng áo lam (PH số 4, 7-7-1932),tường thuậtMột buổi diễn kịch làm phúc (PH số 5, 14-7-1932) và truyện ngắn Bả phồn hoa(PH số 6, 21-7-1932); nhưng lúc đó ông chưa nổi danh, nên không ai biết. Bẵng đi nửa năm, trên Phong Hóa không thấy tên Nhất Chi Mai nữa. Đến PH số 27, 23-12-1932, mới có bài ông, lần này ký tên Thế Lữ, dưới truyện ngắn Thây ma xuống gác. Hơn một năm sau, ông xin được vào làm việc trong tòa soạn Phong Hóa, từ số 91 (30-3-1934). Bút hiệu Nhất Chi Mai chỉ trở lại trên vài số báo Phong Hóa cuối cùng và một cách chính thức, trên báo Ngày Nay. 

Tóm lại, ta có thể tạm kết luận: những thành viên đầu tiên làm báo Phong Hóa, từ số 1 đến số 13, là Khái Hưng và Nguyễn Gia Trí, lúc đó chắc chưa có ý định lập “Văn Đoàn” gì cả. Kể từ Phong Hóa số 14 có Nhất Linh, Hoàng Đạo, Tú Mỡ và Thạch Lam mới trở thành một nhóm hay một “Văn Đoàn” và tới số 27, có thêm Thế Lữ. 

Nhưng đây chỉ là kết luận tạm thời, kỳ tới, sau khi khảo sát nội dung và hình thức những số báo Phong Hóa đầu tiên do Khái Hưng phụ trách (từ số 1 đến số 13), tôi sẽ đưa ra một kết luận rõ ràng hơn.

Phần 4 

4- Khái Hưng và Phong Hóa

Đọc Phong Hóa chúng ta sẽ thấy về mặt bài vở: Phong Hóa từ số 1 (16-6-1932) đến số 13 (8-9-1932) do Khái Hưng phụ trách, từ số 14 (22-9-1932) trở đi, Nhất Linh đổi mới tờ báo, mời thêm những người viết, người vẽ mới và làm Giám đốc.

Theo Những ngày vuicủa Khái Hưng, sở dĩ có sự cải tiến này là nhờ số tiền 10.000 đồng của ân nhân người Minh hương Nguyễn Văn Tiên Leung-Fat-Fadi tặng. Nói khác đi, số tiền Nhất Linh có để phát triển tờ báo là của một người Minh hương, trước chịu ơn Khái Hưng, cho hoặc cho vay.

Trên Phong Hoá số 14 (22-9-32) có đăng quảng cáo xà phòng thơm Mondia, Đại lý độc quyền là Lune-Fat, 22 Hàng Bạc Hà Nội. Phải chăng đây là cửa hiệu của gia đình Leung-Fat-Fa?

Phong Hóa số 14

Chúng tôi xin tóm tắt lại câu chuyện ra được kể trong Những ngày vui:

Duy [Nguyễn Gia Trí] xoay xở, gạ ông chủ hãng xe hơibỏ tiền ra in báo để đăng quảng cáo khỏi tốn tiền. Ông chủ cho bọn Phương [Khái Hưng] Duy mỗi tháng 200 đồng để làm báo Tự Động. Tự Động là tờ báo đầu tiên [tức là Phong Hóa từ số 1 đến số 13] do Phương, Điển viết, Duy vẽ. Điển chắc là nhân vật hư cấu vì chẳng thấy bài nào có thể gọi là của Điển trên báo Phong Hóa. Được trợ cấp 200 đồng, cộng thêm tiền Duy làm “áp phe” và vẽ tranh, nên Tự Độngra được, nhưng báo ế, không biết sống chết lúc nào, mặc dù Duy cố hết sức xin quảng cáo các nhà giầu, cũng không ai bỏ tiền ra. Cuối cùng, nhờ di sản của Nguyễn Văn Tiên Leung-Fat-Fa, mới có tờ Con người [tức là Phong Hóa kể từ số 14].

Về cái tên Tự Động

Phương [Khái Hưng] chất vấn Duy [Nguyễn Gia Trí]:

“Phương hỏi:

– Thế báo anh tên là gì?

– Ô tô.

Điển lăn ra cười:

– Trời ơi! Trên báo Ô tô của anh mà chúng tôi gửi đăng văn, đăng truyện dài, truyện ngắn, thì thánh cũng phải tức cười.

– Việc gì mà tức cười? Thế trên báo Nông Lâm người ta đăng toàn truyện văn chương và truyện kiếm hiệp thì sao? Vả lại mai tôi mới nộp đơn xin ra báo. Nếu các anh không thích cái tên Ô tô thì tôi sẽ đổi nó ra “Tự động”. Không ai hiểu tự động là cái quái quỷ gì, thế là được rồi. Rồi trong bài phi lộ, ta sẽ nói lờ mờ mấy câu cho độc giả hiểu lầm ra nghiã tự do, tự lập gì đó. Thế là báo chạy như mớ tôm tươi ngay. Các anh tha hồ viết.

Phương và Điển vẫn tưởng đó là một câu chuyện đùa bỡn. Nhưng hai chàng kinh ngạc xiết bao khi, một tuần lễ sau, cùng nhận được giấy gọi ra sở liêm phóng khai căn cước và lý lịch. Đến đây, Phương mới biết mình nghiễm nhiên trở nên chủ bút tờ báo “Tự động”. Giá không có cái dấu ngoặc hàng chữ Pháp (Auto Revue), thì có lẽ chàng cũng quên bẵng nghiã chữ “Tự động”.

Rồi nhờ về thế lực và sự vận động của chủ hãng xe lớn, hai tháng sau, báo “Tự Động” được phép ra đời để góp tiếng với các bạn đồng nghiệp Nam Trung Bắc”[1]

Đoạn văn này phản ảnh một số việc thực: nhờ thế lực của ông Phạm Hữu Ninh và Nguyễn Xuân Mai (tên hai người được ghi trên đầu báo Phong Hóa) mà báo Tự Động(tức Phong Hóa) xin được giấy phép ra đời. Khái Hưng là chủ bút. Đây là tờ báo đầu tiên của nhóm Tự Động, cũng là giai đoạn đầu của tờ Phong Hóa, Khái Hưng viết gần hết các bài trên báo với những bút hiệu khác nhau.

Tự Độnglà tên báo, nhưng sự thực là tên Văn Đoàn Tự Lựcnói trại đi. Vậy “nhóm Tự Động” hay nhóm Tự Lực, lúc đầu chỉ có hai người: Khái Hưng và Nguyễn Gia Trí.

Đến khi Tự Động trở thành báo Con Người (tức là Phong Hóa từ số 14 trở đi), Nhất Linh mới cải tổ tờ báo, làm Giám đốc, mượn thêm những người mới.

clip_image004
clip_image006

Hình 1: Tự động xa, tranh Gia Trí, Ngày Nay số 28;  Hình 2: Toà soạn Tự Động, tranh Gia Trí, Ngày Nay số 28 

Sự vận động cho báo Tự Động (tức Phong Hóa số1) được Khái Hưng mô tả như sau:

Trên các bức tường ở các nơi ngã ba, ngã tư thành phố Hà Nội, người ta thấy dán những tờ yết thị màu vàng rộng bản có hai chữ lớn “Tự Động.

Lại gần người ta sẽ nhận rõ, vẽ mầu đỏ, hai bàn ty gân guốc nắm chặt cái “volant” và viết đè lên trên những dòng chữ đen sau này:

Tuần báo ra ngày thứ năm

Có đủ các mục về chính trị, xã hội, thương mại, văn chương và phụ nữ, do các nhà văn có chân tài soạn…

Số đầu ra ngày 1/10/19… sẽ có những bài:

1) Mấy lời phi lộ, của Tự động.

2) Mỹ thuật và ô tôcủa họa sĩ Nguyễn văn Duy.

3) Tôi làm thầu khoán, phóng sự của Trần đình Điển.

4) Nhan sắccủa cô Đỗ mộng Nga.

5) Đêm thu mơ màng,truyện ngắn của cô Song Thu.

6) Một đời, truyện dài của Đỗ như Phương.

Và nhiểu bài rất hay rất mới rất vui của toàn các văn sĩ đã có tiếng tăm trong làng báo và làng văn.

Đón xem sẽ biết” (Những ngày vui, trang 103).

Khái Hưng còn đưa vào miệng người đi đường (bình phẩm bức quảng cáo) những lời sau đây:

Một người láu lỉnh đáp:

– Phải, tự động xa, tự động xa. Nhớ ngày Nam Phong mới ra đời, ông Phạm Quỳnh cũng gọi xe ô tô là tự động xa. Biết đâu tự động đây lại không là tự động xa, và tờ báo Tự Động lại không chỉ là một tờ báo quảng cáo ô tô!

Tiếng cười lại phá lên một lần nữa. Một chàng đeo kính trắng ý chừng muốn khoe rằng ta giỏi chữ nho, giảng nghiã:

– Tự động là tự mình động đậy, tự mình chuyển động, không phải theo ai, không nhờ sức ngoài, không chịu ảnh hưởng ở ngoài sai khiến. Hai chữ “tự động” của người ta hay lắm đấy chứ. Báo Tự động của người ta là một tờ báo tự lập, không sống về phụ cấp của chính phủ hay của một nhà tư bản nào[chúng tôi in đậm]Tự hoạt động để sống một cách vẻ vang”(Những ngày vui, trang 104- 105).

Với giọng nửa đùa nửa thực, Khái Hưng xác định vai trò của Nguyễn Gia Trí trong tờ báo với bài Mỹ thuật và ô tôcủa họa sĩ Nguyễn văn Duy.Rồi ông lái hai chữ Tự Lựcthành Tự Độngđể chế nhạo Phạm Quỳnh dùng chữ nho, đồng thời khoe Phong Hóa là “tờ báotự lập, không sống về phụ cấp của chính phủ hay của một nhà tư bản nào” để chứng tỏ hai chữ Tự Lựcđã có từ thời kỳ đầu tiên và quyết định tự lập, không xin tiền trợ cấp của chính phủ hay một nhà tư bản nào, cũng vậy.

Khái Hưng lại kể lúc mọi người đang bình phẩm tờ quảng cáo, thì “trong khi ấy ở phố Đường Thành hẻo lánh, các nhân viên toà soạn báo Tự Động làm việc để xuất bản số đầu kịp vào ngày đã định[2]

Như vậy trụ sở đầu tiên của Phong Hóa ở phố Đường Thành chăng? Hay đây là địa chỉ Khái Hưng đặt ra? Còn căn nhà năm phòngmà Duy (Nguyễn Gia Trí) thuê cho Phương (Khái Hưng) để làm báo, là nhà nào? Nhà Đường Thành hay là nhà số 1, đường Carnot, toà soạn và trị sự báo Phong Hóa từ số 1 đến số 126 (30-11-1934), trước khi dời về 80 Quan Thánh? Nhiều câu hỏi chưa tìm được lời giải đáp.

Khái Hưng viết:“Thế rồi ngày mồng một tháng mười, như lời “kính cáo”gửi cho các bạn đồng nghiệp. Tự Động ra số đầu “chào quốc dân”[3]

Lời kính cáo chào quốc dânnày nhại lại Mấy lời kính cáo quốc dân in trên trang nhất báo Phong Hóa số 1 (16-6-1932), như ta sẽ thấy ở dưới.

Phong Hóa từ số 1 đến số 13, Khái Hưng ngự trị

Hai nhà nghiên cứu nhìn thấy vai trò của Khái Hưng trên Phong Hóa từ số 1 là Phạm Thế Ngũ và Thanh Lãng.

Phạm Thế Ngũ ghi: “Năm 1932, tờ Phong Hóa của mấy đồng nghiệp cùng dạy học ở trong trường [Thăng Long]ra đời, do Phạm Hữu Ninh, người sáng lập trường Thăng Long làm quản lý, Trần Khánh Giư, giáo sư trường Thăng Long làm chủ bút”[4].

Thanh Lãng viết: “Tuần báo Phong Hóa của ông Phạm Hữu Ninh, ngay từ số 1 ra tháng Juin 1932, cũng đã có một nội dung khác hẳn các báo đương thời cả về văn cũng như về ý tưởng. Trần Khánh Giư ( Khái Hưng) là cây bút cốt cán, giữ nhiều mục quan trọng trên Phong Hóa suốt từ số 1 cho đến số 14”[5]

Nhưng hai ông dừng lại ở hai câu này, không tìm hiểu thêm. Còn phần lớn những người viết khác chỉ chép đi chép lại rằng Nhất Linh, giáo sư cử nhân học ở Pháp về, mua lại tờ Phong Hóa của Phạm Hữu Ninh không có độc giả, sắp chết.

Như trên đã nói, mặc dù Khái Hưng viết: Duy vẽ tranh. Còn Điển và Phương theo đuổi công việc soạn văn, dịch sách”(trang 99), ta cũng có thể đoán chắc răng Điển là nhân vật tưởng tượng, Khái Hưng đưa ra để làm như có hai ngườiviết chứ không phải mình ôngtự biên tự diễn, trên Phong Hóa từ số 1 đến số 13.

Còn một điều quan trọng nữa là cả Khái Hưng lẫn Nhất Linh trong thời kỳ đầu đều chưa ký tên Khái Hưng, Nhất Linh. Trần Khánh Giư chỉ bắt đầu ký tên T. Khái Hưng, trên Phong Hóa số 15 (29-9-1932) dưới truyện ngắn Cái thù ba mươi năm. Nguyễn Tường Tam lần đầu ký tên Nhất Linh dưới bài thơ Điệu thơ cụttrên Phong Hóa số 16 (6-10-1932), còn truyện ngắn vẫn ký Ngô Tâm Tư, rồi Bảo Sơn. Mãi đến Phong Hóa số 91 (30-3-34), lần đầu tiênbút hiệu Nhất Linh mới được ký dưới truyện vừa Thế rồi một buổi chiều.

Cho nên nếu chỉ dựa vào bút hiệu Khái Hưng, Nhất Linh, ta không thể điều tra được những bước đầu xây dựng Tự Lực Văn Đoàn, ai làm gì. Sự chọn tên của Khái Hưng trong Những ngày vui cũng có ý nghĩa: Khái Hưng, Nhất Linh, luôn luôn đi đôi như Phương với Phượng. Khi Khái Hưng lấy tên Nhị Linh cũng trong ý ấy: dù hơn Nhất Linh 10 tuổi, và khai phá tiểu thuyết, truyện ngắn trước Nhất Linh, nhưng ông vẫn ký tên Nhị Linh, để công nhận vai trò chủ soái Tự Lực Văn Đoàn của Nhất Linh.

Phong Hóa số 1ra ngày 16-6-1932[6]. Nội dung gồm có các bài:

Mấy lời kính cáo quốc dân, ký tên Phong Hóa Tuần Báo; Phong Tục(bản điện tử thiếu một trang, nên không rõ tên tác giả); Mục Bia Phong Hóacó ba bài: Sở Khanhcủa Kỳ-Hoa, Năm năm chăn gốicủa Bi Thời Khách, Chữ tình trong lúc biếncủa Trần Đỗ; Tân học cựu học chỉ là hai tiếng, của Trần Khánh Giư; Tranh Hai đám rước sư tử không ký tên; Mục Hài vănký tên Quần Đệ Tử[7]. Và các mục: Văn Đàn; Sử ký và địa dưPhụ nữTin vắn nước Nam và Thế giới, Khoa học thường thức.Đoản thiên tiểu thuyết Mưu sâu đã dắp [rắp] của Kỳ Hoa; và quân sự tiểu thuyết Trận đánh phương nam (không ký tên, có chỗ kýKỳ Hoa).

Tóm lại, trong số 1 này, ngoài hai bài ký tên thật Trần Khánh Giư, những bài còn đều lại ký tên khác, nhưng nếu tinh ý, ta sẽ thấy giọng văn và tư tưởng vẫn là Khái Hưng.

clip_image008

Bìa Phong Hóa số 1

Trên Phong Hóa số 1, trang đầu, có bài Mấy lời kính cáo quốc dân ký Phong Hóa Tuần Báo, lời lẽ như sau:

.. Xãhội Việt Nam ta đương ở vào buổi giao thời, cái giở [dở]của mình chưa giũ [rũ]sạch, cái hay của mình chưa nhận thấu, đương lúc ấy, tờ “Phong Hóa tuần báo” ra đời tưởng cũng không phải là sinh chẳng gặp thời vậy.

Vườn còn hoang, cỏ còn rậm, muốn sửa sang cho thành một cảnh tráng quan há không phải là bổn phận chung của cả Quốc dân? Phong Hóa Tuần Báonay tự nhận chút đỉnh trách nhiệm, sửa sang vườn cũ, cây xưa, biết cái hay thì nêu ra để người lấy đấy mà trau rồi [dồi],biết cái giở [dở] cũng nêu ra để người nhớ lấy mà ruồng bỏ, âu cũng là gánh vác việc công ích trong muôn một.

Đã không thiên tín, lại chẳng chấp mê, chọn lọc hai đường tân cựu so sánh cho đúng hoàn cảnh hiện thời, bỏ điều giở, vạch điều hay của lễ nghi phong tục để cùng Quốc-Dân tấn thủ thi hành, đó là tôn chỉ của tờ Phong Hóa Tuần Báo.” 

Những lời này phù hợp với quan niệm trung dung, hoà hợp cũ mới của Khái Hưng, và “dọn cỏ vườn hoang” sẽ là mục “Hạt đậu dọn” Khái Hưng phụ trách trên Phong Hóa dưới tên Nhát dao cạo, để sửa sai các câu văn trên báo khác. Bài Mấy lời kính cáo quốc dâncùng giọng với bài tiểu luận Tân học cựu học chỉ là hai tiếng viết về Phan Khôi và Phạm Quỳnh, dung hoà ý tưởng của hai nhà văn đối lập tư tưởng tân-cựu, ký tên Trần Khánh Giư.

Tóm lại, ba bài Mấy lời kính cáo quốc dân(giải thích lý do ra báo), Phong tục(giải thích tên Phong Hóa: giáo hóa và phong tục) và bài thơ Cùng các bạn Phong Hóa,trong mục Văn Đàn (nói lên mục đích và tôn chỉ tờ báo) ký tên Phong Hóa, đều do Khái Hưng viết; và tôi chắc chắn cái tên Phong Hóa cũng do Khái Hưng đặt, bởi vì ba bài viết này đều đồng quy ở điểm giáo hóa và phong tục.

Mục Văn Đàncòn có bài thơ A une jeune mariéecủa Victor Hugo, dịch sang tiếng Việt là Lời mẹ khuyên con lúc xuất giá, do Đào Thiện Ngôn dịch; và một số bài thơ ký tên Kỳ Hoa, như Ngu Cơvà Chiêu Quân, nhất là bài hát nói Tu là cõi phúc, đãchớm nở tư tưởng thoát tục trong Hồn bướm mơ tiên.Vì vậy, ta có thể đoán chắc rằng: Đào Thiện Ngôn và Kỳ Hoa cũng vẫn là Khái Hưng, bởi vì chỉ mình Khái Hưng mới có kiến thức Đông phương sâu sắc, có tầm triết học Thái tây, có tư tưởng thấm nhuần Nho Phật, có tài làm thơ và dịch thơ chữ Pháp và chữ Hán, có khuynh hướng lịch sử và cực lực bênh vực nữ quyền.

Mục Sử ký và địa dưcó bài Con tiên cháu rồngkể chuyện Lạc Long Quân và Âu Cơ ký tên Kỳ Hoa, chứng tỏ khuynh hướng lịch sử đã bắt đầu. Mục Phụ nữcó bài Làm thân con gái đời thượng cổ của Trần Khánh Giư, mở đầu chiến dịch khôi phục nữ quyền trong tiểu luận. Tiếp đến là đoản thiên tiểu thuyết Mưu sâu đã dắp [rắp] của Kỳ Hoa (truyện một người chồng lập mưu đổ cho vợ tội ngoại tình để đuổi đi) chứng tỏ ông đã bắt đầu dùng tiểu thuyết để bênh vực người phụ nữ, mà đỉnh cao sẽ là Nửa chừng xuân, đăng trên Phong Hóa từ số 36 (1-3-1933).

Sau cùng là quân sự tiểu thuyết Trận đánh phương nam, không ký tên (có lần ký Kỳ Hoa) phóng tác theo tiểu thuyết kiếm hiệp Tây phương, cho ta thấy ông đã tập viết tiểu thuyết lịch sử và đỉnh cao sẽ là Tiêu Sơn tráng sĩ, bắt đầu đăng trên Phong Hóa từ số 129 (21-12-1934).

Kỳ Hoa có lẽ là bút hiệu Khái Hưng định chọn lúc đầu. Kỳ Hoa và Đào Thiện Ngôn sẽ biến mất sau Phong Hóa số 7,thay thế bằng những bút hiệu khác.

Trên Phong Hóa số 1, hầu như những tư tưởng chính xây dựng tờ Phong Hóa của Khái Hưng đã được bộc lộ: cho thấy hầu như toàn bộ tư tưởng ôn hoà và phong cách sáng tác đan cài văn chương, lịch sử và văn hoá Việt của ông. Tóm lại, năm 1932, trên Phong Hóa giai đoạn đầu của Tự Lực Văn Đoàn, Khái Hưng bao dàn gần hết bài vở, cũng như với hai tờ Việt Nam và Chính Nghiã, ở giai đoạn chót của Tự Lực Văn Đoàn, năm 1946. Ông đã “luyện văn” trên tờ Phong Hóa từ số 1 đến số 13, bằng nhiều thể loại khác nhau, với những chủ đề khác nhau.

Phong Hóa số 2(23-6-1932), báo ra ngày thứ năm, bìa có tranh trừu tượng, ký tên chữ Hán, nghiã là Đông Sơn[8]. Nội dung gồm có:

Bài xã luận: Muốn phá hủy hãy kiến thiết đãcủa Trần Khánh Giư. Mục Bia Phong Hóa có bài Nam vô tửu như kỳ vô phongcủa Kỳ Hoa. Hý họa không ký tên. Hài vănký Quần Đệ Tử.

Ý nghĩa Bồi thường trong sự hình phạt ở Á Đôngcủa Trần Khánh Giư. MụcVăn đàn: gồm một bài hát nói Mừng Phong Hóacủa Thảo Thượng Phong và một bài thơ cổ của Tăng Tử đời Tống vịnh Ngu Cơ, do Kỳ Hoa dịch, rất hay.

Mục Sử ký và địa dưcó bài Thần núi thần sông(chuyện Sơn Tinh, Thuỷ Tinh) của Kỳ Hoa. Sau cùng là đoản thiên tiểu thuyết Mùa hoa gạo của Kỳ Hoa và Trận đánh phương nam, tiểu thuyết quân sự cũng của Kỳ Hoa.

clip_image010

Bìa Phong Hóa số 2

Tranh bìa này chắc Nguyễn Gia Trí vẽ, ký tên Đông Sơn chữ Hán, vì lúc này, trên nguyên tắc, chưa có Nhất Linh.

Lần đầu tiên tờ báo ghi tên tòa soạn và trị sự: Số 1, đường Carnot trên trang bìa. Và cũng lần đầu tiên ghi: Nguyễn Xuân Mai, Giám đốc và Phạm Hữu Ninh, Quản lýnhà in Thụy Ký (chữ nhỏ ở trang sau chót). Hai ông này sẽ giữ địa vị quan trọng trong một thời gian dài, như ta sẽ thấy ở dưới. Nhưng hầu như ít ai chú ý đến tên Nguyễn Xuân Mai, mà chỉ giữ lại tên Phạm Hữu Ninh vì ông là hiệu trưởng trường Thăng Long.

Trong số 2 này, vẫn gần như chỉ có một mình Khái Hưng tự biên tự diễn, ông ký thêm tên Thảo Thượng Phong dưới bài hát nói và tên này cũng chỉ xuất hiện vài số rồi biến mất. Nhưng đáng chú ý là hai bài:

– Xã luận: Muốn phá hủy hãy kiến thiết đãcủa Trần Khánh Giư, lời lẽ mạnh bạo, thuyết phục, nêu lên những hủ lậu của lối sống cũ, cần phải đổi mới, nhưng cũng chống lại sự a dua quá đáng của một số người theo mới: “Những cái mới không hẳn đã là hay, những cái cũ không chắc đã là dở, theo mới bỏ cũ vị tất đã là đi không phải đường. Song giá khi nào học những cái mới được tường tận đã, được hoàn toàn đã, thấu hết được tinh thần đã, hãy nên ruồng rẫy những cái cũ thì hợp đạo hơn“. Trần Khánh Giư đưa ra thí dụ: xưa kia còn học chữ nho thì đứa trẻ nào trong làng cũng ê a dăm ba chữ của thầy đồ, bây giờ chuyển sang quốc ngữ, mấy làng mới có được một trường học, nạn mù chữ mạnh hơn. Quan điểm này -hoàn toàn khác với khẩu hiệu “theo mới hoàn toàn theo mới”của Hoàng Đạo-Khái Hưng đã dùng làm nền tảng để xây dựng nhân vật Mai trong Nửa chừng xuân, khác hẳn nhân vật Loan trong Đoạn tuyệtcủa Nhất Linh.

– Đoản thiên tiểu thuyết Mùa hoa gạo ký Kỳ Hoa,là tự truyện về quãng đời đi học của Khái Hưng: thủa nhỏ học 5 năm chữ Hán (từ 5 tuổi đến 10 tuổi) rồi mới học chữ Tây. Thi bằng Sơ Học năm 14 tuổi, vì đỗ cao nên được vào trường Bảo Hộ (ngoài đời Khái Hưng học trường Albert Sarraut). Mùa hoa gạosẽ được ông viết lại thành hồi ký Thế giới cũ Mực tầu giấy bảnký tên Nhị Linh, về thời học chữ nho, đăng trên Phong Hóa từ số 24 (2-12-1932).

Phong Hóa số 3(30-6-1932) ngoài những mục thường thức, còn có:

Xã luận: Một câu hỏicủa Trần Khánh Giư, biện hộ cho việc con gái cần phải đi họcđể có kiến thức, nâng cao giá trị người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội.

Bài Quang cảnh một tiệm hút thuốc phiện ở HàNội(đăng hai kỳ, kỳ đầu ký Thảo Thượng Phong, kỳ sau ký Trần Đỗ). Bài này có lẽ là thử nghiệm truyện ngắn hiện đại đầu tiêncủa Khái Hưng, viết theo lối phóng sự hư cấu về một tiệm hút thuốc phiện. Phương pháp mô tả của ông đã thành hình: tiệm hút ở ngõ Sầm Công được Khái Hưng soi tỏ mọi khía cạnh: người và vật.

Mục Bia Phong Hóacó bài Hoạn Thưcủa Kỳ Hoa. Mục Hài văncủa Quần Đệ Tử, mục Thực hay hưcủa Nghịch Nhĩ Đào Đình Dù. Mục Gương thể thaocủa Nguyễn Tuấn Giao. Mục Chuyện Phong HóaVì tình nên phải…của Khúc Giang.

Và trên Phong Hóa số 3 này có tranh hài hước ký tên Đông Sơn quốc ngữ lần đầu. Có thể vẫn là của Nguyễn Gia Trí, vì Nhất Linh chưa “vào”, và có quảng cáo Nguyễn Tường Tam dạy trường Thăng Long, giáo sư cử nhân Vật lý. Cũng trong số báo này có thêm bút hiệu Khúc Giang, là tên một bài thơ của Đỗ Phủ.

Phong Hóa số 4(7-7-1932)

Xã luận: Nghề và tiếngcủa Trần Khánh Giư. Tuỳ bút Quần trắng áo lamcủa Nhất Chi Mai (bàn về mốt áo lam quần trắng của các bà các cô đang thịnh hành) đây là bài văn đầu tiên của Nhất Chi Mai tức Thế Lữ được đăng trên Phong Hóa, viết theo thể văn tùy bút khá mới, nhưng không ai để ý. Mọi người chỉ coi như Thế Lữ có mặt, từ lúc truyện ngắn Thây ma xuống gácký tên Ng. Thế Lữ, được đăng trên PH số 27 (23-12-1932).

Mục Bia Phong Hóacó bài Cái ngông cái rởm của người đờicủa Khúc Giang Đào Thiện Ngôn. Qua bút hiệu này ta biết Khúc Giangchính là Đào Thiện Ngôn,đều là Khái Hưng.

Tiểu luận Một cái khí giới của ông bố An Namcủa Trần Khánh Giư, đả phá chế độ phụ quyền. Mục Phụ nữcó bài Hồ Xuân Hươngcủa Kỳ Hoa. Thực hay hưcủa Nghịch Nhĩ Đào Đình Dù. Bài Quang cảnh một tiệm thuốc phiện ở Hà Nội(tiếp theo), lần này không ký Thảo Thượng Phong mà ký Trần Đỗ. Như vậy Trần Đỗ cũng là bút hiệu của Khái Hưng. Hài văncủa Quần Đệ Tử. Có tật giật mình,tranh của Hbat. Mục Văn đàn, có ba bài thơ: Qua thành tỉnh Sơn, Thăm cảnh hồ Gươm, Đêm hè xem sách, không đề tên tác giả và một đoản văn của Chateaubriand do Đào Thiện Ngôn dịch, tất cả đều “của” Khái Hưng. Có tranh hài hướcchế nhạo việc đánh bài, không ký tên. Mục Sử ký và điạ dư, có bài Đức Thánh Gióngcủa Kỳ Hoa.

Phong Hóa từ số 5(14-7-1932) đến số 10(18-8-1932)

Phong Hóa số 5 có bài Một buổi diễn kịch làm phúc, tường thuật của Nhất Chi Mai và PH số 6, có truyện Bả phồn hoacủa Nhất Chi Mai, sau đó không thấy bài của Nhất Chi Mai nữa.

Tóm lại, từ số 1 đến số 10, Khái Hưng bao dàn gần như hết cả tờ báo với những tên khác nhau. Ông đã ký những tên: Trần Khánh Giư, Kỳ Hoa, Đào Thiện Ngôn, Trần Đỗ, Thảo Thượng Phong, Khúc Giang, Hưng Bang, K.G., Ngô Đình Chiên, Bán Than[9], Hứa Do, K.G. Đào Quang Triệu, T. K. Giư, Lão Ôn, Trần Lang, Nhà Nho, Quần Đệ Tử, Nghịch Nhĩ Đào Đình Dù… Những bút hiệu này, hoặc do phá ba chữ Trần Khánh Giư, để lắp lại theo một trật tự khác, hoặc sử dụng hai chữ đầu K.G rồi biến chế thêm, hoặc dùng những sự tích liên quan đến tướng Trần Khánh Dư trong lịch sử, cùng quê với ông, hoặc thầm kín nói lên tính chất nhà nho “người hiền” như Hứa Do của chính mình, hoặc cho thấy Khái Hưng có humour, thích pha trò, tự giễu. Ông chỉ bắt đầu ký tên T. Khái Hưng trên Phong Hóa số 15 (29-9-1932) dưới đoản thiên tiểu thuyết Cái thù ba mươi năm, tác phẩm đầu tiên bộc lộ ngôn ngữ tiểu thuyết của Khái Hưng.

clip_image012
clip_image014

Hình 1: Phong Hóa số 11;  Hình 2: Phong Hóa số 14 

Phong Hóa số 11(25-8- 1932), là ngõ quặt, bắt đầu sự cải tiến. Về hình thức, bỏ lối trình bày khổ nhỏ của tập san, chuyển sang khổ lớn của báo hàng ngày (như Phong Hóa số 14). Và có bài quảng cáo trên trang nhất, như sau:

Một sự cải cách lớn của báo Phong Hóa

Phong Hóa tuần báo tạm ra bốn trang giá bán 0p,03 [3 xu]để đủ thời giờ dự định một cuộc hoán cải rất lớn lao.

Vài tuần nữa tờ báo Phong Hóa sẽ được vừa lòng độc giả về hết các phương diện văn chương, mỹ thuật, tư tưởng.

Xin độc giả vững tâm chờ đợi. Phong Hóa tuần báo sẽ không phụ tấm lòng yêu mến của độc giả.

Qua lời quảng cáo này, ta có thể hiểu, kể từ số 11, Phong Hóa đã có số tiền 10.000 đồng của Nguyễn Văn Tiên Leung-Fat-Fa, nên Tự Lực Văn Đoàn mới quyết định đổi mới tờ Phong Hóa, theo cách tổ chức của Nhất Linh.

Nhưng Tự Lực Văn Đoàn lúc đó có những ai? Đã là một Văn Đoàn chưa? Dựa vào Những ngày vui, thì lúc đó “nhóm Tự Động” hay Tự Lực chỉ có Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí và Nhất Linh.

Phong Hóa số 12 (1-9-1932) trình bày giống hệt như Phong Hóa số 11, bài quảng cáo cũng như thế, trên trang nhất.

Phong Hóa số 13 (8-9-1932), đăng bài quảng cáo mới, ở giữa trang nhất, “hoành tráng” và “nhà nghề” hơn, chắc đã có bàn tay Nhất Linh nhúng vào:

Một cuộc hoán cải lớn lao trong báo Phong Hóa!

Một sự lạ trong làng báo!

Một cái mới!

Đến ngày thứ năm 22 Sept.1932

Báo Phong Hóa sẽ ra số mới 8 hay 12 trang (khổ nhật trình). Mỗi số 0p07 [7 xu]”.

Bàn một cách vui vẻ về các vấn đề

cần thiết; xã hội , chính trị, kinh tế

Nói rõ về hiện tượng trong nước.

Có 15 tranh vui, nhiều chuyện vui v.v..

Cần thiết…

Hoạt động…

Vui vẻ… 

Mãi… Mãi…

Ai cần xem báo! Ai thích đọc báo!

Nên đọc Phong Hóa

Kính cáo độc giả:

Báo Phong Hóa tạm nghỉ một kỳ (15 Septembre) để có đủ thời giờ sửa soạn số ngày 22 Septembre”.

clip_image016

Phong Hóa số 13

Vật ta có thể tóm tắt lại tình hình như sau:

Phong Hóa từ số 1 đến số 10: Khái Hưng viết, báo có khổ nhỏ của tạp chí (24×33).

Phong Hóa số 11, đổi mới hình thức, khổ lớn như báo hàng ngày và đăng quảng cáo: báo Phong Hóa sẽ có cải cách lớn.

Phong Hóa số 12 và 13, rút gọn nội dung bài vở, để chuẩn bị cho số 14.

Phong Hóa số 14: tờ báo đã cải cách, do Tự Lực Văn Đoàn chủ trương, ra đời.

Từ số 20 trở đi, trở lại khổ tạp chí.

Nhưng vẫn còn câu hỏi: Tự Lực Văn Đoàn thành lập lúc nào mà “chủ trương” báo Phong Hóa số 14 như lời Nhất Linh và Hoàng Đạo tuyên bố trên Phong Hóa số 154? (Xem Sự thành lập Tự Lực Văn Đoànphần I). Có thể có hai câu trả lời:

1- Từ Phong Hóa số 1 đến Phong Hóa số 13.

2- Từ Phong Hóa số 10 đến Phong Hóa số 13.

Tôi chọn câu trả lời số 2, bởi vì, trên Phong Hóa từ số 1 đến số 10, chỉ có mình Khái Hưng viết. Đến Phong Hóa số 11, sự thay đổi rất rõ ràng. Vậy ta có thể coi là Nhất Linh đã “vào” Phong Hóa, trễ lắm là từ số 11; và nhờ tiền của Leung-Fat-Fa, ông mới có phương tiện tổ chức lại tờ báo, mời Tú Mỡ, gọi các em vào giúp, mượn thêm họa sĩ vẽ hý họa.

Như vậy, ta có thể “chính thức” nhìn nhận rằng:

Nhóm Tự Lực đã thành hình trong khoảng thời gian từ Phong Hóa số 11 (25-8-1932) đến Phong Hóa số 13 (8-9-1932), tức là những ngày cuối tháng tám đầu tháng chín năm 1932.

Nguyễn Xuân Mai và Phạm Hữu Ninh

Đáng lẽ bài này kết thúc ở đây, nhưng chúng tôi vẫn cón muốn tìm hiểu thêm một vấn đề nữa: Nguyễn Xuân Mai là ai?

Cho đến nay, hầu như mọi người đều tin rằng Phong Hóa chỉ bắt đầu từ số 14, khi Nhất Linh làm giám đốc. Nhưng nếu đọc kỹ Phong Hóa từ những số đầu, thì mọi sự không hoàn toàn như thế: Phong Hóa là một tờ báo có sự quản trị liên tục, từ số 1 đến số 13, do Khái Hưng viết với những bút hiệu khác nhau; rồi từ số 14 trở đi, Nhất Linh mở rộng, đổi mới và làm Giám đốc, nhưng Ban quản trịkhông hề thay đổi: tên hai ông Phạm Hữu Ninh và Nguyễn Xuân Mai luôn luôn có trên đầu báo, từ số 14 (22-9-1932) đến số 126 (30-11- 1934). Vậy họ là ai?

Nếu Nhất Linh mua lại tờ Phong Hóa của ông Phạm Hữu Ninh, thì tại sao tên ông Ninh và ông Mai vẫn còn tồn tại trên mặt báo, sau số 14? Không những vai trò của Phạm Hữu Ninh không dừng ở Phong Hóa số 13, mà còn kéo dài nhiều năm sau. Vì từ số 14 (22-9-1932) trở đi, trên đầu báo, dưới tên Phong Hóa, luôn luôn có hàng chữ này:

Fondateur Directeur politique [Sáng lập, Giám đốc chính trị]Nguyễn Xuân Mai,Directeur [Giám đốc]Nguyễn Tường Tam,Administrateur Gérant [Quản lý Trị sự]Phạm Hữu Ninh.”

Đến số 126 (30-11-1934),khi toà soạn dọn về 80 Quan Thánh, những dòng chữ này mới bỏ hẳn, chỉ giữ lại: Nguyễn Tường Tam Directeur.

Việc này dẫn đến hai câu hỏi:

– Một tờ báo có cần Giám đốc chính trịkhông?

– Phạm Hữu Ninh là hiệu trưởng trường Thăng Long, còn Nguyễn Xuân Mai là ai?

Trên bià Phong Hóa từ số 1 đến số 13, không thấy ghi tên Phạm Hữu Ninh, Nguyễn Xuân Mai trên đầu báo. Nhưng từ Phong Hóa số 2 (23-6-1932), ở trang cuối ghi hàng chữ nhỏ tiếng Pháp: Le Directeur Nguyễn Xuân Mai- Imprimerie Thụy Ký Hà Nội-Le gérant Phạm Hữu Ninh[Giám đốc Nguyễn Xuân Mai – Nhà in Thụy Ký Hà Nội – Quản lý Phạm Hữu Ninh].

Đây là lần đầu tiên tên hai ông xuất hiện, Nguyễn Xuân Mai được ghi là Giám đốc nhà in Thụy Ký, còn Phạm Hữu Ninh làm quản lý.

Phong Hóa số 11 (25-8-1932), nhà in đổi tên là Moderne, hai ông vẫn làm giám đốc và quản lý. Và đến Phong Hóa số 14, khi Nhất Linh làm Giám đốc, thì Nguyễn Xuân Mai trở thành nhà Sáng Lậpvà Giám đốc chính trị. Tại sao?

Tú Mỡ kể lại chuyện ra báo trong hồi ký như sau:

“Mãi đến khi anh Tam rủ tôi vào báo Tiếng Cười thì cá mới thực gặp nước; tôi mến phục anh Tam có con mắt tinh đời, biết người, biết của, nên vui sướng nhận lời cộng tác với anh. (…)

Chúng tôi đã sáng tác được nhiều cho báo Tiếng Cười. Nhưng vẫn chưa được giấy phép ra báo. Anh Tam có đi thăm dò tin tức, thì ở sở báo chí của phủ Thống sứ người ta bảo rằng: “còn xét! Một tháng, hai tháng, ba tháng, vẫn cứ “còn xét”. Chúng tôi bảo nhau: cái kiểu kéo dài “còn xét” này, có nghiã là nó không muốn cho phép. Nhưng nó xỏ lá không muốn công khai từ chối vì không có lý do chính đáng”[10]

Câu này sai, vì Nhất Linh viết trong bài Nói truyện cũ trên Phong Hóa số 154 (20-9-1935) rằng: “Tờ “Tiếng Cười” đó đã được giấy phép xuất bản của chính phủ, nhưng không thể ra đời được, vì một lẽ giản dị là không kịp thu xếp xong trước ngày hết hạn giấy phép”. Và trong bài tiểu sử Nhất Linh do Nguyễn Ngu Í soạn năm 1966, cho biết thêm: Tiếng Cười không ra được vì không có tiền.

Điều này chứng tỏ Tú Mỡ không biết rõ chuyện báo Tiếng Cười, ông chỉ nghe kể lại, rồi bịa thêm câu: “sở báo chí phủ Thống sứ bảo: còn xét”,được rất nhiều người chép lại.

Nhưng đoạn dưới đây, có một điều tin được:

Anh Tam đâu có chịu bó tay. Anh xoay và đã xoay rất cừ. Bấy giờ, nhân dịp có tờ Phong Hóa của anh Phạm Hữu Ninh, quản trị, anh Nguyễn Xuân Mai, giám đốc chính trị, loại báo vô thưởng vô phạt, đang sống dở chết dở vì không ai buồn đọc, sắp sửa phải đình bản. Anh Tam đề nghị với hai anh nhượng lại tờ báo cho mình làm chủ bút, hai anh vẫn đứng tên quản trị và giám đốc chính trị làm vì, mỗi tháng lĩnh mấy chục bạc lương (tức là tiền cho thuê báo). Tất cả đều hỉ hả: anh Ninh và anh Mai trút được gánh nặng mà báo khỏi đình bản; anh Tam sẵn có tờ báo thay cho tờ Tiếng Cười, chắc là không đươc phép xuất bản”[11]

Điểm có thể tin được ở đây trong lời Tú Mỡ là: Nhất Linh chỉ “thuê” giấy phép làm báo, cho nên hai ông Ninh và Mai vẫn “chính thức” đứng tên. Việc này giải thích lý do tại sao trên đầu Phong Hóa số 14 lại ghi: Nguyễn Xuân Mai là người Sáng lập và Giám đốc chính trị;Nguyễn Tường Tam, Giám đốc và Phạm Hữu Ninh, Quản lýChỉ tới số 126, khi toà soạn đã dọn về 80 Quan Thánh, thì trên đầu báo mới bỏ hết tên ba người, nhưng tên Nguyễn Xuân Mai và Phạm Hữu Ninh, lại xuất hiện lại, trên báo thêm một thời gian nữa, đến Phong Hóa số 139 (8-3-1935) mới chấm dứt hẳn[12].

Cũng nên ghi thêm: kể từ Phong Hóa số 136 (15-2-1935) Nguyễn Tường Tam không có tên trên bảng quảng cáo các giáo sư cử nhân trường Thăng Long. Nhưng ông chỉ ngừng dạy một thời gian, vì đến năm 1937, trên báo Ngày Nay số 74 (29-8-1937), lại quảng cáo tên ông trong ban giáo sư nhà trường, như vậy ông còn dạy học trong niên khoá 1937-1938 nữa.

Phong Hóa Ngày Nay bị biển thủ

Nhà in, nhà xuất bản và tờ báo là ba cơ quan khác nhau. Báo Phong Hóa, từ số 1(6-6-1932) đến số 190 (5-6-1936) đã thay đổi tên nhà in nhiều lần, thoạt tiên là Thụy Ký, rồi Imprimerie Moderne (62 Hàng Bạc), Lê Văn Tân, Trung Bắc Tân Văn và Tân Dân[13]. Chắc chỉ đổi tên, chứ vẫn là một nhà in,vì ông Nguyễn Xuân Mai luôn luôn là Giám đốc và ông Phạm Hữu Ninh quản lý. Từ PH số 134 (30-1-1935) trở về sau mới chuyển sang Nguyễn Tường Tam quản lý nhà in Tân Dân đến số 190, số chót.

Còn báo Ngày Nay ra sau, lần lượt do Nguyễn Tường Cẩm (anh Nhất Linh), Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), Trần Khánh Giư (Khái Hưng) và Nguyễn Tường Lân (Thạch Lam) làm Giám đốc. Tên nhà in báo Ngày Nay cũng thay đổi từ Imprimerie d’Extrême Orient sang TBTV (Trung Bắc Tân Văn) rồi lại trở về với tên Thụy Ký[14], và “những nhà in” này đều do Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Tường Lân và Nguyễn Kim Hoàn (em rể Nhất Linh, chồng bà Nguyễn Thị Thế) thay phiên nhau quản lý.

Qua chuyện nhà in, bật ra mấy câu hỏi có tính cách xác định:

– Tên nhà in hai báo Phong Hóa Ngày Nay, tuy thay đổi nhiều lần, nhưng có phải vẫn chỉ là một nhà in Thụy Ký mà ông giám đốc là Nguyễn Xuân Mai hay không?

– Sau Phạm Hữu Ninh đến Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Tường Lân, Nguyễn Kim Hoàn kế tiếp nhau quản lý (các) nhà in. “Các” nhà in này tuy thay đổi tên nhưng cuối cùng vẫn trở về với tên đầu tiên Thụy Ký, trước khi “bán lại” cho Ngày Nay.

– Ngày Nay số 208 quảng cáo: “Ngày Nay ngày nay in nhà in nhà”và từ Ngày Nay số 209, báo đề in ở Imprimerie spéciale de la Revue Ngày Nay.Vậy báo Ngày Nay chỉ có nhà in riêng bắt đầu từ số 208, và nhà in này cũng tên là Ngày Nay.

– Tại sao một tờ báo lớn như Ngày Nay và một nhà xuất bản lớn như Đời Nay lại chỉ có nhà in riêng khá chậm như vậy?

– Bởi vì Tự Lực Văn Đoàn bị một người biển thủ. Việc này bà Nguyễn Thị Thế có nói đến trong hồi ký: “Các anh mải mê sáng tác, soạn bài vở nên giao việc trông nom ấn loát và quảng cáo cho một người bạn vì quá tin nên không kiểm soát gì cả. Trong hai năm ông ta thụt két mất một số tiền lớn; sau này có người mách các anh soát lại sổ sách mới rõ, thật là chua cay[15]Nhưng bà không nói rõ ai thụt két và trong thời gian nào. Khi rà lại Phong Hóa và Ngày Nay để tìm dấu vết vụ này, chúng tôi thấy rằng:

Kể từ Phong Hóa số 140 (15-3-1935), ông Nguyễn Văn Thức làm Quản lý báo Phong Hóa và Ngày Nay, tên ông được đề liên tục trên đầu báo, trong hai năm rưỡi.

Bỗng nhiên, đến Ngày Nay số 74 (29-8-1937), dưới bài diễn văn của Nhất Linh Ý nghiã xã hội của Ánh Sáng, trên một cột nhỏ, phải chú ý mới thấy, có in mấy dòng Cùng các độc giả Ngày Nay và những nhà đăng quảng cáo, dưới dạng bố cáo như sau:

Ông Nguyễn Văn Thức, người thủ khố (Caissier comptable) của báo Ngày Nay bỗng dưng bỏ việc mấy hôm nay không đến tòa báo. Vậy chúng tôi không coi ông ấy là người làm công của chúng tôi nữa. Tiền nong, thư từ về việc quảng cáo, xin các bạn gửi cho ông TRẦN TIÊU, 80 Grand Bouddha, Hà Nội.”

Vậy, Trần Tiêu, em ruột Khái Hưng đã thay Nguyễn Văn Thức làm quản lý báo Ngày Nay (Nguyễn Thị Thế ghi Hoàng Đạo) trong một thời gian, sau đó Nguyễn Trọng Trạc lên thay thế, rồi sau báo Ngày Nay không đề tên Giám đốc, Quản lý nữa. Kể từ Ngày Nay số 166 (17-6-1939) ông Nguyễn Kim Hoàn, làm quản lý nhà in Thụy Ký đến số báo chót.

Vì vụ biển thủ này, cho nên báo Ngày Nay không có tiền để lập nhà in riêng và nhà xuất bản Đời Nay cũng bị khó khăn theo, cho nên mãi đến năm 1940, tức là tới lúc các thành viên chính đã phải trốn tránh và Tự Lực Văn Đoàn bắt đầu tan rã, thì Ngày Nay số 209 (25-5-1940), mới in được ở nhà in riêng, và quảng cáo trên báo câu đối: Ngày Nay ngày nay in nhà in nhà.

Tại sao ông Nguyễn Xuân Mai lại là người sáng lập Phong Hóa?

Câu hỏi: ông Nguyễn Xuân Mai, Giám đốc Sáng lập và Giám đốc Chính trị tờ Phong Hóa, là ai? Vẫn chưa trả lời được. Đọc lời chia buồn của Phong Hóa khi được tin cụ Thượng Đính mất, tôi được biết một thông tin quý giá giúp tôi giải mã câu hỏi này.

Bản Tin buồnđăng trên Phong Hóa số 183 (17-4-1936), bắt đầu như sau:

Bản báo được tincụ Lê Vân Đính, Tuần phủ chí sĩ, thân phụ ông Lê Vân Nham, nhạc phụ ông Thụy Ký và ông Trần Khánh Giư đã mệnh chung ở Dịch Diệp(Nam Định) ngày 7 tháng tư…”

clip_image018

Nhờ mấy dòng này mà ta biết ông Thụy Ký là người anh đồng hao của Khái Hưng.

Vì vậy, chúng tôi tạm đưa ra giả thuyết: tờ Phong Hóa, được ông Thụy Ký (Nguyễn Xuân Mai), không những giúp đỡ Khái Hưng in báo từ số 1, mà khi Nhất Linh mở rộng tờ báo, từ số 14, ông Thụy Ký Nguyễn Xuân Mai còn bao che cả việc chính trị (vì ông có thế lực?), cho nên trên đầu tờ Phong Hóa, từ số 14, luôn luôn đề Nguyễn Xuân Mai, Giám đốc Sáng lập và Giám đốc Chính trị. Như thế, công của ông trong việc xây dựng tờ Phong Hóa thực không nhỏ, và ông quả là người Sáng lập ra tờ báo.

Fondateur Directeur Politique Nguyễn Xuân Mai

Nhà in Thụy Ký, trong suốt 8 năm, do ông Nguyễn Xuân Mai làm chủ, ban đầu mượn ông Phạm Hữu Ninh, tiếp đến anh em Nguyễn Tường làm quản lý và chỉ đến bốn tháng cuối cùng, Tự Lực Văn Đoàn mới mua được nhà in mới (hay mua lại nhà in Thụy Ký) để có nhà in riêng, tức là nhà in Ngày Nay, in báo Ngày Nay từ số 209 (25-5-1940), đến 224 (7-9-1940) là số chót. Nhưng năm 1940, Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo và Nguyễn Gia Trí đã tham gia cách mạng rồi.

Tóm lại, sau những khảo sát đầu tiên, chúng tôi xin tạm kết luận:

Báo Phong Hoá (số 1, ra ngày 6-6-1932) do Nguyễn Xuân Mai, giám đốc nhà xuất bản Thụy Ký sáng lập và in ấn; Trần Khánh Giư và Nguyễn Gia Trí chủ trương; Trần Khánh Giư đặt tên là Phong Hoá và viết hầu như toàn diện bài vở từ số 1 đến số 13 (8-9-1932). Tên Tự Lực cũng đã có trong thời kỳ này.

Kể từ Phong Hoá số 11, nhờ số tiền 10.000 đồng của Nguyễn Văn Tiên Leung-Fat-Fa di tặng, mới có quyết định mở rộng và đổi mới theo kế hoạch của Nguyễn Tường Tam.

Tự Lực Văn Đoànđã thành hình trong khoảng thời gian từ Phong Hóa số 11 (25-8-32) đến Phong Hóa số 13 (8-9-32), tức là những ngày cuối tháng tám đầu tháng chín năm 1932, để chuẩn bị cho số báo 14 (22-9-1932) là số báo chính thức của Văn Đoàn. 

(Còn tiếp)

Thụy Khuê 


[1]Những ngày vui, bản Phượng Giang, 1958, trang 101-102.

[2]Những ngày vui,bản Phượng Giang, trang 105.

[3]Những ngày vui,trang 108.

[4]Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III, Anh Phương Sài Gòn, 1965, Đại Nam Hoa Kỳ, in lại, trang 432.

[5]Thanh Lãng,Bảng lược đồ văn học Việt Nam, quyển hạ, Ba thế hệ của nền văn học mới (1862-1945) NxbTrình Bầy, 1967,trang 609.

[6]Khổ tạp chí, 16 trang, giá 10 xu, chưa có bìa. Khung in Giá báo, đề: Ngân phiếu và thư tín xin gửi: M. Phạm Hữu Ninh, Quản lý Phong Hóa Tuần Báo, số 1 đường Carnot Hà Nội.

[7]Mục Hài vănký tên Quần Đệ Tử từ số 1 tới số 7; số 8 ký Bán Than; số 9 ký Bi Thời Khách. Từ số 10, đổi tên thành Nụ Cười, vẫn do Khái Hưng viết, ký tên Lão Ôn; số 11 và 12 ký tên Nhà Nho; số 13 ký tên Ba Phải. Đặc biệt số 6, có bài thơ phỏng cổ Chinh Phụ Ngâm: Lời than của chị em dưới sóm[xóm] của Quần Đệ Tử, rất hay.

[8]Bìa này giữ đến số 10. Dưới tranh bìa, đề hàng chữ to: Toà soạn và trị sự số 1, Đường Carnot [nay là Phan Đinh Phùng] Hà Nội. Giá bán 10 xu. Ở tận cùng trang cuối, ghi hàng chữ nhỏ: Le directeur Nguyễn Xuân Mai- Imprimerie Thụy Ký Hà Nội- Le gérant: Phạm Hữu Ninh.

[9]Tướng Trần Khánh Dư ngày trước có lúc bị biếm phải làm nghề bán than.

[10]Trong bếp núc của Tự Lực Văn Đoàn, hồi ký của Tú Mỡ, Tạp chí Văn Học, Hà Nội, số 5-6 năm 1988 và số 1 năm 1989, in lại trong cuốn Tự Lực Văn Đoàn trong tiến trình văn học dân tộc, Mai Hương tuyển chọn và biên soạn, Nxb Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, 2000, trang 125-158).

[11]Tú Mỡ, Trong bếp núc của Tự Lực Văn Đoàn,sách dã dẫn.

[12]Kể từ Phong Hóa số 127 (7-12-34) tên Nguyễn Xuân Mai và Phạm Hữu Ninh không còn trên đầu báo, nhưng cuối báo vẫn đề tên ông Phạm Hữu Ninh quản lý nhà in Tân Dân, tới số 134 (30-1-1935). Từ số 135 (8-2-1935) nhà in Tân Dân do Nguyễn Tường Tam quản lý. Đến số 137 (22-2-35) và số 138 (1-3-1935), lại thấy tên ông Nguyễn Xuân Mai xuất hiện trên đầu báo, với danh nghiã: Sáng lập. Tới Phong Hóa số 139 (8-3-1935) mới bỏ hẳn tên hai ông Nguyễn Xuân Mai và Phạm Hữu Ninh.

[13]Nhà in Thụy Ký, do ông Phạm Hữu Ninh quản lý, đổi tên là Imprimerie Moderne 62 Hàng Bạc kể từ Phong Hóa số 11 (25-8-1932). Tiếp đó, sẽ có những tên: Lê Cường, (do Nguyễn Tường Tam quản lý, in Phong Hóa số 14) nhưng từ số 15, lại trở về tên Moderne, rồi trở thành: Lê Văn Tân, Trung Bắc Tân Văn và Tân Dân, đều do ông Phạm Hữu Ninh quản lý. Đến PH 134 (30-1-1935), nhà in Tân Dân mới do Nguyễn Tường Tam quản lý.

[14]Ngày Nay số 1 (30-1-1935) in ở Imprimerie d’Extrême-Orient, do Nguyễn Tường Cẩm làm Giám đốc báo và Quản lý cả nhà in. Được năm số thì ông Cẩm nghỉ. Nguyễn Tường Tam thay thế. Ngày Nay số 26 (20-9-1936) nhà in có tên là TBTV (Trung Bắc Tân Văn), số 27 (27-9-1936) lấy lại tên Thụy Ký, rồi từ số 31 (25-10-1936), lại đổi tên TBTV, đến số 38 (13-12-1936), trở về tên Thụy Ký, vẫn do Nguyễn Tường Tam làm Quản lý. Tới Ngày Nay số 68 (18-7-1937), Nguyễn Tường Lân (Thạch Lam) lên làm Giám đốc tờ báo, đồng thời Quản lý nhà in Thụy Ký cho tới số 165 (10-6-1939). Từ Ngày Nay số 166 (17-6-1939), không đề tên giám đốc tờ báo nữa, chỉ còn tên Nguyễn Kim Hoàn (chồng bà Nguyễn Thị Thế, em gái Nhất Linh) làm quản lý nhà in Thụy Ký cho tới số 208 (18-5-1940). Và từ Ngày Nay số 209, báo đề in ở Imprimerie spéciale de la Revue Ngày Nay,tức là nhà in riêng của Ngày Nay cho tới số cuối cùng 224, vẫn do ông Nguyễn Kim Hoàn quản lý.

[15]Hồi ký Nguyễn Thị Thế, bản Văn Hóa Ngày Nay, 1996, Hoa Kỳ, trang 120.

(Còn tiếp)

Thụy Khuê

Để lại lời nhắn

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.