
Dostoyevski trong một thế giới duy ác

Trần Mạnh Hảo
“ Vòm trời đó nào phải ai cho mượn
Nào phải ai cho mượn để che đầu”
(Thơ Trần Mạnh Hảo)
Phần 1

Ảnh : Đại văn hào Nga Dotxtoyevxky
Buồn thay cho những anh em nhà Karamazov của dân tộc Việt Nam ta hôm nay, nơi cái ác, cái xấu, cái dối trá đang thống trị mà kẻ cai trị hình như không còn khả năng sám hối, không còn khả năng xấu hổ, không còn khả năng hướng thiện trong hội chứng nói dối muôn năm, muôn năm nói dối. Dostoyevski, đức thánh nhân của chủ nghĩa hiện thực nhân đạo ơi, Ngài hãy giúp nền văn học của chúng tôi, nền chính trị của nước chúng tôi một que diêm hi vọng mang tên khả năng sám hối nơi bóng đêm trường cửu đang bao phủ trái tim kẻ vô thần, từng ra tay đập phá đình chùa, nhà thờ, miếu mạo …còn có cơ hội tỉnh ngộ…
Cuốn sách cuối cùng đại văn hào Nga L.Tolstoi đọc trước lúc bỏ nhà ra đi vào đêm 28-10-1910 rồi chết tại nhà ga xe lửa Astapovo ngày 20-11-1910 là kiệt tác “Anh em nhà Karamazov” của một đại văn hào Nga khác: Dostoyevski. Trên bàn làm việc của vị bá tước nhà văn này ở điền trang Yasnaya Poliana tỉnh Tula cuốn sách vĩ đại của Dos vẫn còn mở ra bằng một thanh kẹp sách ở chương Dos viết về “Viên Đại pháp quan tôn giáo” trong câu chuyện của nhân vật Ivan Karamazov kể cho em trai mình là Aliosha Karamazov…
Người ta đã lý giải nhiều về những nguyên nhân khiến L.Tolstoi bỏ nhà ra đi tìm một nơi yên tĩnh và nghèo khó để chết: nào là để thoát khỏi bà vợ đã từng sống 48 năm với ít nhiều thiên đường và rất nhiều địa ngục. Nào là L. Tolstoi luôn ám ảnh về cái chết, muốn chết như một con thú hoang trốn chạy loài người. Nào là chuyện Tolstoi bị Nga hoàng cấm các cuốn sách của ông, chuyện ông bị giáo hội Chính thống Nga rút phép thông công vì ông dám viết công khai chống lại giáo lý, lại quảng bá cho đạo Phật …

Nhưng còn một nguyên nhân tuy có thể là nhỏ, như giọt nước làm tràn li mà các nhà “Tolstoi học” chưa hề nhắc tới là chuyện những ám ảnh khủng khiếp của kiệt tác “Anh em nhà Karamazov” của Dostoyevski đã góp phần đẩy cụ già Lép bỏ trốn vợ con ra đi tìm cái chết ở một nơi vô định vào tuổi 82?
Suốt 29 năm, từ ngày Dostoyevski về nước Chúa (1881), cũng là năm kiệt tác “Anh em nhà Karamazop” được in ra trọn vẹn lần đầu, L.Tolstoi đã mua cuốn sách này của Dos. Tolstoi coi cuốn sách này là một cuốn sách vĩ đại, lật từng trang nặng như giấy in làm bằng đá; đến nỗi ông phải đánh vật với nó, khóc cười, rùng rợn, căm ghét, nguyền rủa rồi lại ca tụng nó hết lời. Hình như trong cuốn sách khác thường này của Dos, Lép kinh hoàng nhận ra nó vừa là qủy, vừa là thánh, thậm chí là hình ảnh của Đức Chúa Jesus bị đem ra đóng đinh một lần nữa trên nước Nga tràn ngập quân dữ của ông. Suốt 29 năm trời, đại văn hào thế giới Lep này chưa đọc hết cuốn sách được ông coi là dài và rộng hơn cả nước Nga của đại văn hào Dos, kẻ lớn hơn ông bảy tuổi, chết trước ông 29 năm.

Cho nên, trước lúc vĩnh biệt ngôi điền trang và gia đình đi tìm một nơi hoang dã để chết, thay vì đọc Kinh Thánh, L. Tolstoi đã đọc “Anh em nhà Karamazov”; để rồi ông – một người báng bổ giáo lý Thiên Chúa giáo nhưng vẫn xưng mình là tín hữu Ki-tô giáo – thoát khỏi cái thế giới duy ác của các ngài Đại Pháp quan chuyên khoác áo duy thiện để dọa đưa Chúa Jesus lên giàn hỏa của tòa dị giáo, nơi ông ta đang ngồi canh giữ thế giới đã được nô lệ hóa của riêng mình, nếu Chúa không biết điều mà “ cút” khỏi thế giới đã được an bài cho các quan cai trị…
“Anh em nhà Karamazov” đã thôi miên ngay cả L.Tostoi, khiến suốt 29 năm ông rất mê nó mà vẫn chưa đọc hết kiệt tác này. Cuốn sách ấy, ghê gớm thay, cho đến hôm nay vẫn còn thôi miên cả thế giới, một cuốn sách vĩ đại nhất, khó đọc nhất, ác nhất, thiện nhất, ma mãnh và thánh thần nhất.
Đến nỗi, đầu thế kỷ thứ XX, một nhà văn Nga là A. Remizov đã ca ngợi tác giả của nó hết mức: “Dostoyevski đó là nước Nga. Không có Dostoyevski không có nước Nga”. Chúng tôi xin thêm: Dostoyevski & L.Tolstoi chính là nước Nga. Đỉnh núi lớn L.Tolstoi nếu đứng một mình, nước Nga sẽ đổ. May thay, bên cạnh đỉnh cao “Chiến tranh & Hòa bình”, nước Nga đã được cân bằng bởi một đỉnh núi ngược khác, ấy là vực sâu tinh thần thăm thẳm “Anh em nhà Karamazov”
Hình như chính Viên đại pháp quan tôn giáo trong tác phẩm của Dos vừa nhảy ra truy bắt Lép; hay là ông chợt nhìn thấy gương mặt của Viên đại pháp quan tôn giáo trong gương mặt bà vợ gốc Đức của mình: Sophie Behrs nên phải trốn nhà trong đêm tối? Xin hãy đọc một phân đoạn ngắn nhưng là một công án lớn bậc nhất thế giới mà Dos thông báo với nhân loại qua miệng nhân vật Ivan Karamazov kể cho em trai Aliosha Karamazov, có đoạn là sự đối thoại của hai nhân vật này xưng với nhau bằng “tôi” với “chú”như sau:
“Chuyện tôi kể diễn ra ở thành Xevin Tây Ban Nha, vào thời pháp đình tôn giáo ghê rợn nhất, khi mà để làm sáng danh Chúa Trời, hàng ngày những giàn lửa thiêu rực cháy trong nước:
Quân tà đạo không còn thoát được.
Giàn lửa thiêu ngùn ngụt căm hờn…
…Vốn lòng lành vô cùng, một lần nữa Chúa đi qua giữa dân chúng, hình dạng Chúa vẫn như mười lăm thế kỷ trước khi Ngài sống giữa mọi người trong ba năm ròng. Ngài giáng lâm đến “các phố phường rực lửa” của đô thành phía Nam ấy. Ở đó chỉ mới hôm trước, trong “giàn lửa huy hoàng”, trước mặt đức vua, triều thần, các hiệp sĩ, các giáo chủ và các mệnh phụ kiều diễm nhất trong triều, trước đông đảo dân chúng thành Xevin, theo lệnh của giáo chủ Đại Pháp quan, người ta đã thiêu luôn một lúc ngót trăm kẻ di giáo. Chúa xuất hiện một cách lặng lẽ, không để ai nhận thấy, nhưng kỳ lạ thay, mọi người đều nhận ra Chúa. Đấy có thể là một trong những đoạn hay nhất của bản trường ca, nói về việc tại sao người ta nhận ra Chúa. Một sức mạnh không thể cưỡng lại được khiến dân chúng ùa đến với Chúa, vây quanh Chúa mỗi lúc một đông thêm, đi theo Chúa. Chúa im lặng đi qua giữa họ, miệng mỉm cười hiền từ, thương cảm vô hạn….Dân chúng khóc và hôn mặt đất nơi Chúa bước chân lên. Trẻ em tung hoa trước mặt Chúa, hát và reo hò:
‘Hoxama!”(5).… “Đấy là Ngài, chính là Ngài, một người nhắc đi nhắc lại, – hẳn phải là Ngài, chỉ có thể là Ngài”.
Chúa dừng lại trên sân nhà thờ Xevin giữa lúc người ta khóc lóc khiêng vào đó một cỗ quan tài trẻ em màu trắng mở nắp: nằm trong quan tài là một bé gái bảy tuổi, con gái duy nhất của một người quyền quý ở tha phương. Xác đứa bé phủ đầy hoa. “Ngài sẽ làm con bà sống lại” đám đông reo lên với bà mẹ đang khóc lóc. Một linh mục của nhà thờ đang đi về phía cỗ quan tài cau mày nhìn, dáng vẻ băn khoăn. Nhưng bà mẹ của đứa bé đã khóc gào lên. Bà sụp xuống chân Chúa: “Nếu Ngài là Chúa thì xin hãy làm cho con tôi sống lại!” – bà ta giang hai tay cầu Chúa, kêu lên.

Đám đưa tang dừng lại, đặt cỗ quan tài dưới chân Chúa. Chúa nhìn đầy vẻ thương xót, và một lần nữa Chúa khẽ thốt lên: “Ta-lia kumi!” – “bé em hãy trở dậy” – Cô bé ngồi dậy trong quan tài, mỉm cười, mắt mở to ngạc nhiên nhìn xung quanh. Hai tay em cầm bó hoa hồng mà em vẫn ôm ở trong quan tài. Dân chúng nhốn nháo, la hò, nức nở, đúng lúc ấy giáo chủ Đại Pháp quan đột nhiên đi qua quảng trường trước nhà thờ. Đấy là một ông già ngót chín mươi tuổi, thân hình cao, lưng thẳng, mặt khô quắt, mắt hõm sâu nhưng vẫn sáng quắc. Ồ, ông không mặc bộ đạo phục giáo chủ lộng lẫy mà hôm qua ông còn mặc khi ra trước dân chúng trong cuộc hoả thiêu những kẻ thù của đạo La Mã, không, lúc ấy ông chỉ mặc chiếc áo thụng cũ thô kệch của mình. Theo sau ông, cách một khoảng khá xa, là những người giúp việc mặt mày cau có những nô lệ và đội “thánh binh”. Ông dừng lại trước đám đông và quan sát từ xa. Ông nhìn thấy hết. Ông nhìn thấy cỗ quan tài được đặt dưới chân Ngài, rồi con bé sống lại, và mặt ông sa sầm. Ông cau đôi lông mày sâu róm trắng bạc, ánh mắt ông lóe lên hung tợn. Ông trỏ ngón tay ra lệnh cho bọn vệ binh bắt Ngài. Uy quyền của ông rất lớn, dân chúng đã quen thần phục, ngoan ngoãn và run sợ tuân lệnh ông, đám đông lập tức dãn ra trước bọn vệ binh, và bọn này, trong bầu không khí im ắng như trong nhà mồ, túm lấy Ngài giải đi. Tức khắc, nghìn người như một, đám đông nhất loạt rập đầu sát đất trước vị Đại Pháp quan, ông ta lẳng lặng ban phước cho dân chúng và đi ngang qua chỗ họ. Vệ binh giải phạm nhân vào một ngục thất chật hẹp, tối tăm, có vòm cuốn trong toà nhà cổ của Pháp đình thánh tín và nhốt ở đó. Một ngày qua đi, rồi đêm đến, một đêm nóng bức ngột ngạt của Xevin. Không khí nồng “hương nguyệt quế và hương chanh”. Trong bóng tối sâu thăm thẳm, cửa sắt nhà ngục bỗng mở ra, và đích thân lão Đại Pháp quan cầm cây đèn chậm rãi đi vào. Ông ta đến một mình, cửa tức thời đóng lại sau lưng ông ta. Ông ta dừng lại một lúc lâu, chừng một vài phút, nhìn chằm chằm vào mặt Ngài. Cuối cùng ông ta nhẹ nhàng đến gần, đặt cây đèn xuống bàn, nói với Ngài: “Ông đấy ư? Ông ư?” – Nhưng không đợi trả lời, ông ta nói thêm luôn, – Đừng trả lời, cứ im lặng. Với lại, ông có thể nói gì được kia chứ? Tôi thừa biết ông sẽ nói gì. Ông không có quyền thêm một lời nào vào những gì ông đã nói trước kia. Tại sao ông xuống đây làm phiền chúng tôi? Ông đến là phiền cho chúng tôi, điều đó thì chính ông cũng biết. Nhưng ông có biết ngày mai sẽ thế nào không? Tôi không biết ông là ai và không muốn biết có phải ông thật không hay chỉ là cái vẻ bên ngoài giống như ông, nhưng ngày mai tôi sẽ kết án ông và thiêu ông trên giàn lửa như một kẻ tà giáo độc ác nhất, và dân chúng hôm nay hôn chân ông thì ngày mai tôi chỉ vẫy tay một cái là họ đổ xô đến hất thêm than vào giàn lửa thiêu ông, ông có biết thế không? Ờ, có lẽ ông biết” – ông ta trầm ngâm nói thêm, măt không lúc nào rời khỏi người bị bắt giam…”
….

“…Chúng tôi làm như thế có phải lẽ không, Chúa nói đi. Lẽ nào chúng tôi không yêu nhân loại khi chúng tôi khiêm nhường nhận ra chỗ yếu kém của họ, trìu mến giảm nhẹ gánh nặng cho họ và cho phép bản chất yếu đuối của họ phạm tội, miễn là được chúng tôi cho phép? Vậy bây giờ Chúa đến gây phiền toái cho chúng tôi làm gì? Sao Chúa lẳng lặng nhìn tôi một cách thấm thía bằng cặp mắt hiền từ như vậy? Cứ nổi giận đi, tôi không mong muốn tình yêu của Chúa, vì chính tôi không yêu Chúa. Cần gì tôi phải giấu giếm Chúa? Hay tôi không biết tôi đang nói với ai? Những gì tôi muốn nói với Chúa, Chúa biết hết rồi, tôi đọc thấy trong mắt Chúa. Tôi phải giấu Chúa điều bí nhiệm của chúng tôi chăng? Có lẽ Chúa muốn nghe điều đó từ miệng tôi nói ra chăng, vậy thì hãy nghe đây: chúng tôi không theo Chúa, mà theo hắn (tức qủy), đó là điều bí nhiệm của chúng tôi! Đã từ lâu chúng tôi không theo Chúa, mà theo hắn, đã tám thế kỷ nay.
Đúng tám thế kỷ trước, chúng tôi đã nhận lấy của hắn cái mà Chúa đã phẫn nộ gạt bỏ, món quà cuối cùng mà hắn đã dâng Chúa khi trỏ cho Chúa tất cả các vương quốc trần gian: chúng tôi đã nhận của hắn La Mã và thanh gươm của Xezar …Tôi nắm giữ điều bí mật và vì hạnh phúc của họ, chúng tôi sẽ cám dỗ họ bằng phần thưởng vĩnh cửu trên trời. Chỉ vì nếu có cái gì ở thế giới bên kia thì tất nhiên không phải là dành cho những người như họ…
….
…Nên biết rằng tôi không sợ Chúa đâu. Nên biết rằng tôi đã từng ở trong sa mạc, tôi đã từng sống bằng châu chấu và rễ cây, tôi đã từng cảm tạ cái tự do mà Chúa đã xuống ơn cho loài người: tôi sẵn sàng xung vào số người được Chúa lựa chọn, những người đầy uy quyền và mạnh mẽ, vì nóng lòng muốn “bổ sung cho đủ số” Nhưng tôi đã tỉnh ngộ và không muốn phục vụ một công việc điên rồ. Tôi đã quay trở lại và nhập với những người đã sửa chữa sự nghiệp của Chúa. Tôi lìa bỏ những người kiêu hãnh và trở lại với những người khiêm nhường vì hạnh phúc, của những người khiêm nhường ấy. Điều tôi nói với Chúa bây giờ sẽ thành sự thật, vương quốc của chúng tôi sẽ được dựng nên. Tôi nhắc lại, ngày mai Chúa sẽ thấy chúng tôi chỉ vẫy tay một cái là đàn cừu ngoan ngoan ấy sẽ đâm bổ đến hất thêm than hồng vào đống lửa thiêu Chúa, tôi sẽ thiêu Chúa vì Chúa đã đến gây phiền rầy cho chúng tôi. Bởi vì nếu có người nào đáng lên giàn hoả thiêu hơn ai hết thì đó là Chúa. Ngày mai tôi sẽ thiêu Chúa…
…
– Viên pháp quan của anh không tin Chúa Trời, tất cả bí mật của ông ta chỉ có thế thôi!
– Cho dù là thế đi nữa! Rốt cuộc chú đã đoán ra…
…
– Tôi muốn kết thúc nó như sau: viên pháp quan tôn giáo im tiếng một lát, chờ xem kẻ bị giam trả lời ra sao. Sự im lặng của Chúa thật nặng nề đối với ông ta. Ông ta thấy người này vẫn lắng lặng nghe ông ta với vẻ hết sức thấm thía, và xem ra không muốn bác bỏ gì hết. Ông già muốn Chúa nói với ông ta điều gì, dù là cay đắng, đáng sợ. Nhưng Chúa bỗng lẳng lặng đến gần ông già và dịu dàng hôn lên cặp môi tái nhợt của ông lão chín mươi. Đấy là tất cả câu trả lời. Ông già rùng mình. Khóe môi ông rung động. Ông ta mở cửa, nói với Chúa: “Chúa đi đi và đừng đến nữa… đừng bao giờ đến nữa… đừng bao giờ, đừng bao giờ”. Ông ta thả cho Chúa đi vào “những phố phường tăm tối của đô thành”. Người bị giam ra đi…”
(lược trích chương 5 “ Anh em nhà Karamazov” do Phạm Mạnh Hùng dịch)
Hơn 120 năm từ khi “Anh em nhà Karamazov” ra đời, có hàng trăm học giả viết hàng trăm bài luận văn bình phẩm đoạn “ Viên đại pháp quan tôn giáo” về ý nghĩa thần học, triết học, văn học, sử học, chính trị học, luật học, mỹ học…, tranh luận ác liệt về các ý nghĩa tương phản trong hình tượng văn học bất hủ và vĩ đại này. Đến nỗi, S. Freud đã gọi đoạn trường ca “ Viên đại pháp quan tôn giáo” trên là áng văn hay nhất thế giới từ xưa đến nay. Có lẽ, chính hứng khởi từ trường ca này, A. Einstein đã ca tụng Dostoyevski hết lời, rằng: “ Dos đã cho tôi nhiều hơn bất cứ nhà tư tưởng nào của nhân loại”. Có lẽ, chính vì hứng khởi từ trường ca này, F. Nietzsche đã viết như sau trong đoạn “Người điên” trích trong kiệt tác văn học-triết học của ông: “ Zarathustra đã nói như thế” rằng:
“Chúa đã chết. Chúa vẫn chết. Và chúng ta đã giết Ngài. Làm thế nào để tự an ủi chính chúng ta, những kẻ sát nhân của tất cả những kẻ sát nhân? Kẻ linh thiêng và hùng cường nhất mà thế giới hãy còn công nhận đã chảy máu đến chết dưới những lưỡi dao của chúng ta: ai sẽ lau đi vết máu này đây? Có thứ nước nào để ta tẩy rửa chính mình không? Chúng ta còn có thể bày ra lễ hội sám hối nào, những trò chơi linh thánh nào nữa đây? Liệu sự vĩ đại của hành động này có quá vĩ đại đối với chúng ta chăng? Liệu chúng ta có nên không trở thành chúa chỉ để tỏ ra xứng đáng với việc đó?”
Nietzsche từng coi kiệt tác “Anh em nhà Karamazov” là cuốn sách gối đầu giường, là kinh thánh mới của ông, nên ông đã thấm nhuần tư tưởng Dos trong lời nói nổi tiếng trên của mình, khiến nhiều người hiểu nhầm rằng ông nguyền rủa Thượng đế. Không, cả Dos và Nietzsche đều tôn vinh Thượng Đế bằng cách làm ra vẻ báng bổ Ngài, theo kiểu Huệ Năng tôn vinh Đức Phật.
Trong lời tựa cho tác phẩm “Anh em nhà Karamazov”, dịch giả, nhà văn Phạm Mạnh Hùng, có đoạn viết: “Trong bản trường ca “ Viên đại pháp quan”, Dostoyevski lên án gay gắt đạo Thiên Chúa mà ông căm ghét và đả kích quan niệm chủ nghĩa xã hội trại lính (Dostoyevski coi quan niệm này là chung cho mọi học thuyết về xã hội chủ nghĩa)”
Người ta cần phải học phương pháp bóc vỏ hành trong khi đọc sách Dos. Cái vỏ bên ngoài hình như đoạn văn trên Dos lên án giáo hội Thiên Chúa giáo lợi dụng Chúa Jesus để mê hoặc giáo dân, để làm chiêu bài nô lệ hóa con chiên? Nhưng càng đọc, càng tiếp nhận Dos ở nhiều chiều kích khác nhau, mới thấy “nói vậy không phải là vậy”, rằng thực ra đây là đoạn Dos ca ngợi Chúa Jesus nhất.
Viên đại pháp quan tôn giáo ngồi ra lệnh thiêu sống hàng nghìn con người ngoại đạo hay báng đạo, vẫn nhân danh Chúa, nhân danh điều răn cấm giết người của Chúa để giết người không gớm tay, chính là ông ta (quan giáo hội) đang gián tiếp muốn giết Chúa, hỏa thiêu Chúa một lần nữa. Ki-tô chính là Cái Đẹp, là Chân Thiện Mỹ, là mục đích cao cả của Thiên Chúa Giáo, là Chân Lý bỗng biến thành phương tiện cai trị, thàng công cụ hóa tước đoạt tự do các tín hữu. Viên đại pháp quan tôn giáo kia chỉ là một biểu tượng cho mọi kẻ thống trị trong các thời đại của loài người.
Bọn thống trị ấy hầu như đều nhân danh một mục đích cao cả nào đó, ví như mục đích giải phóng, mục đích mang lại tự do, hạnh phúc, mang lại thế giới đại đồng cho con người để lừa đảo con người, để làm bình phong, làm phương cách nô dịch hóa con người, bầy đàn hóa con người. Chúng, bọn thống trị mang tinh thần Viên đại pháp quan kia nhân danh Chúa để giết Chúa, nhân danh Cái Đẹp để xóa bỏ chân thiện mỹ, nhân danh tự do để cầm tù con người, nhân danh Chân lý để diệt Chân lý là thông điệp Dostoyevski cảnh báo dân tộc Nga và thế giới không chỉ trong “Anh em nhà Karamazov” mà trong hầu hết trong các tác phẩm khác của ông.
Trong đoạn văn trên còn câu chuyện Viên đại pháp quan nói với Chúa rằng, Chúa đã sai lầm khi không đổi tự do tuyệt đối của mình lấy phép thuật của qủy Sa-tăng khi quỷ muốn đổi tự do của Chúa lấy bí mật phép lạ biến đá thành bánh mì, vì dân chúng chỉ cần bánh mì, không cần tự do. Ấy là việc Kinh Thánh chép khi Jesus vào hoang mạc, ăn chay 40 ngày đêm, qủy hiện ra thứ thách Ngài ba điều: nếu là Chúa thật sao ông không biến đá thành bánh mỳ ăn cho đỡ đói? Nếu là Chúa thật sao ông không nhảy từ đền thờ xuống cho các thiên thần đỡ lấy? Nếu ông quỳ lạy ta, ta sẽ ban cả thế gian này cho ông cai trị? Viên đại pháp quan chê chúa dại dột, không hành động theo lời qủy xúi. Rằng vì cái lợi, vì bánh mì, vì quyền lực, con người khác Chúa sẵn sàng đổi tự do tuyệt đối để lấy các thứ lợi lộc do qủy đề xuất kia. Rằng Viên đại pháp quan thích theo qủy sướng hơn theo Chúa để có quyền lực trên thế gian, hơn là sự bất tử trên nước trời. Mục đích tối thượng của Viên đại pháp quan và kẻ thống trị các xã hội trần gian cần là bánh mỳ, là quyền lực chứ không phải chân lý. Chân lý, cái đẹp chỉ là bánh vẽ bọn thống trị đưa ra để dụ dỗ con người; rằng ta hứa cho nhân dân tự do, thì ngược lại, nhất định các người sẽ nhận được nhà tù; rằng ta hứa cho các người thiên đường đại đồng trên trái đất, nhất định nhân dân chỉ có thể nhận được từ tay kẻ thống trị xảo ngôn địa ngục mà thôi…
Không chỉ dịch giả Phạm Mạnh Hùng nhận thấy Dos căm ghét đạo Thiên Chúa giáo mà rất nhiều người đọc Dos theo kiểu mặt phẳng cũng có quan điểm trên; trong khi từng trang sách của Dos chỉ mượn mặt phẳng giấy để trưng ra không gian muôn chiều các ý nghĩa sâu sắc tột cùng của một triết gia dùng xúc cảm trái tim gửi thông điệp tới nhân loại: “ Cái đẹp (theo ý nghĩa rốt ráo là Chúa Jesus) sẽ cứu vớt thế giới”.
Hãy xem, Dos viết gì về tín ngưỡng Ki-tô giáo của mình: “Tôi tin rằng không có gì đẹp hơn, sâu sắc hơn, đáng mến hơn, thông minh hơn, dũng cảm hơn và toàn bích hơn Đức Chúa Ki-tô…Giả sử có ai chứng minh được cho tôi rằng Ki-tô ở ngoài chân lý và quả thực chân lý ở ngoài Ki-tô, thì tôi vẫn muốn ở lại với Ki-tô, chứ không với chân lý”. Dos còn tuyên bố nhiều lần xác tín niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa của ông. Những năm tháng bị tù, bị biệt giam trong hầm tù tử hình, bị đi đày, bị làm lính thú tại Xibia, Dos luôn mang theo vật bất li thân là cuốn Kinh Thánh Tân Ước.Trước ngày chết ba tháng, Dos còn viết những dòng này trong nhật ký: “ Bọn vô lại chế diễu tôi tin một cách cổ hủ và vô học vào Thượng Đế…”. Lúc lâm chung, Dos nhờ người vợ tuyệt vời của ông là Anna Grigorievna Snitkina đọc cho ông đoạn Kinh Thánh ngẫu hứng nào bà mở ra. Đoạn, Dos trút hơi thở cuối cùng trong lời Kinh Thánh.
Niềm tin vào Chúa Ki-tô của Dos và các nhân vật của ông là một hành trình thương khó, khổ ải vô bờ, tự mình đóng đanh tâm hồn mình lên cây thánh giá của hoài nghi, của suy tư triết học, của sự cật vấn, truy nguyên rất khó chịu của bộ óc còn nguyên vẹn sự tò mò con trẻ trước các tín điều về Chúa Ba Ngôi, về việc hiến tế thân mình cho Cái Đẹp tuyệt đối, tha thứ tuyệt đối, hi sinh tuyệt đối của Jesus lấy máu mình làm chứng sự vĩnh hằng…
(còn tiếp)