Bức thư tình (tuyệt hay ??!!) của Trịnh Công Sơn gửi cô nữ sinh 16 tuổi
Cái mất không bao giờ mất hẳn
Cái còn không hẳn mãi là còn”(TCS)
DẪN NHẬP :
Cũng trong lần thăm viếng (vừa qua )”Phố Núi và Bạn bè ” của các bạn trẻ cựu học sinh THPT Kontum niên khóa 1980 ,Tư tôi đã nhìn thấy các bạn trẻ trích dẫn mấy đoạn “thư tình ” của anh bạn TCS viết và gửi riêng cho cô bé học trò ĐK 16 tuổi(Dao Ánh em của cô Diễm)ngày xưa con ông cụ Ngô Khánh dạy Pháp Văn thập niên 50-60 ,khi Tư tôi còn mài đủng quần trên ghế nhà trường(Quốc Học Huế).
Như đã có lần viết TCS và Tư tôi cùng tuổi và cùng thế hế hê(trong thời chinh chiến điêu linh của cuộc nội chiến và chiến tranh ủy nhiệm đã qua)và tình cờ lại sống cạnh nhau trên đường Gia Long,Phan Bội Châu(bây giờ là Phan Đăng Lưu)(gần trường “hát bội Bà Tuần (Vũ ?)”ngày xa xưa ,ở Huế .Gia đình TCS kinh doanh tiệm bán xe đạp và phụ tùng Thanh Tâm (đọc “TCS tôi đã tha thứ cho anh từ lâu” của một người Huế đồng trang lứa với Tư tôi trên Kontumquetoi.com).
Những ai sống vào thời gian ấy trên đoạn đương vừa kể chắc cũng thấy và hiểu rõ sự “thăng trầm ‘của gia đình họ Trinh.
Có thể do một tai nạn mà tài năng của TCS bộc phát như “tài năng ” của một “nhà ngoại cảm “(!) ngoài Bắc chăng .??
Trong một lần trời mưa đi chơi cùng một nhóm bạn tại Chợ Cống(Huế) người viết có thắc mắc với họ Trinh( sau khi nghe bản nhạc Sơn mới sáng tác “Diễm Xưa””)tại sao cậu học chương trình Pháp mà cậu lại có khả năng dùng từ trong âm nhạc dễ dàng và hay (dễ như lấy đồ vật trong túi theo lời Văn Cao)mà chỉ những cậu HS/SV tầm thường của chương trình Việt mới biết .Câu trả lời là “Trời cho” !!!??
Vâng ,Trời cho tâm hồn Sơn như thế và Sơn đã được mọi người đón nhận cái tài năng thiên phú và tâm sự của mình .
Sơn cũng tầm thường như chúng ta(đọc những ghi lại của Nguyễn Thành Ty trong những ngày tháng dạy học cấp1 tại Lâm Đồng).Cũng có những mối tình thời mới lớn(Diễm,Nguyệt,Mai…..) như người viết và bạn bè khi chưa có sự nghiệp(hay công việc) bảo đảm cuộc sống của riêng mình,khoắc khoải về thân phận con người VN(nhất là tầng lớp thanh niên) trong hoàn cảnh của cuộc nội chiến,chiến tranh ủy nhiệm ,chết chóc ,mất mác đang diễn ra hằng ngày,trước mắt .
Có thể TCS đã đại diện cho cả một thế hệ để nói lên nỗi khoắc khoải của mình trước vận hành của guồng máy chiến tranh tàn khốc ,sự tan rã của một cơ cấu xã hội…ngoại trừ những con người “cơ hội” “hoạt đầu “HPNT,HPNP,NĐX…… !
Diễm và cô em(16 tuổi) Dao Ánh thời ấy là con của vị giáo sư Pháp Văn khả kính,nghiêm nghị Ngô Khánh tại Trường Quốc Học Huế mà người viết đã được thụ giáo .Một gia đình gia giáo ,nghiêm khắc làm sao chấp nhận những “cuộc tình vớ vẫn” của những thanh niên “lông bông” không tương lai ?Như Sơn và ngừoi viết .Nhưng ước mơ(của tuổi trẻ ) thì cứ ước mơ.Nhưng là những ước mơ đẹp một thời .Thế thôi .
TCS nhờ tài năng Thiên phú và bộc phát vô tình đã trở thành “người của công chúng ” tên tuổi (và sáng tác)đã được khai thác triệt để từ trong gia đình(em út) đến ngoài xã hội vì mục đích riêng cho lợi ích vật chất và tinh thần(của họ)sau khi Sơn đã “từ bỏ cuộc chơi” trên thế gian nầy:Đặt tên cho một con đường,viết sách khen chê…..vv..
Sơn cũng “hèn “(như chúng ta) .Tuy nhiên vì là người “lỡ ” trở thành “người của quần chúng nên cái “hèn” đã bị nhiều người nhìn thấy(Tự lấy ghế ngồi riêng tách khỏi khối những người làm văn nghệ Miền Nam trong một buổi “học tập đường lối văn nghệ mới “sau “giải phóng”(!)-Đọc Hoàng Hải Thủy Viết giữa Rừng phong)-âm thầm trở lại Huế(sau giải phóng) sau khi hát ở Đài Phát Thanh Saigon ngày30/4/75 để được “tham gia lao động tự nguyện “tại Đông Hà trên những bãi mìn và bom đạn chưa gở và chuyển hướng sáng tác(như Vũ Thành An) ca ngợi cuộc sống mới !!( về sau có ai đó có quyền lực “cứu”đưa về Saigon.Người ta vẫn chưa quên “Đàn bò vào thành phố “và “Bài ca trên những xác người “………..
May mà không lâm vào cảnh “người chết hai lần thịt da nát tan “!!!
Việc xuất bản mới đây “những lá thư tình thời mới lớn “của Sơn viết cho một trong rất nhiều người tình thời trai trẻ,thời mới lớn của Sơn có thể cũng nằm trong mục đích đó ?
Ai trong chúng ta cũng có thể viết những như tình như thế,viết riêng cho một người (hay nhiều người) nhưng vì “không phải là “người của quần chúng, có tài thiên phú như Sơn “nên chỉ đáng bỏ vào sọt rác hay chỉ giữ riêng cho mình kỷ niệm một quảng đời(đẹp) của đời người .
Các “bạn trẻ (bây giờ cũng đã già rồi)của Phố núi và Bè bạn ,theo thiển ý,cho rằng những bức thư tình đó là “tuyệt tác “như thư tình của các nhà văn, nhà thơ của các vĩ nhân của loài người thì người viết xin có ý kiến không thuận lòng.
Đó là những gì riêng tư (đôi khi người viết đọc lại thấy tầm thường) chỉ để cho riêng mình ,cho một đoạn đời đẹp đã qua .Công bố cho mọi người đọc có thể tạo nên ý nghĩ đã nói ở trên.
Vì vậy,khi xin phép trích lại trên kontumquetoi.com, người viết đã chọn tựa đề “Thư viết(riêng) cho một người để mọi người cùng đọc ” là vì vậy .
“Tư khi trăng là Nguyệt”
Rồi đến
“Từ khi trăng thôi là Nguyệt”
là DZẬY THÂU !!
Xin bạn Sơn yên nghỉ !!
Tư Chơi Xóm Lò Heo Kontum
Dao Ánh khi 16 tuổi , đang là nữ sinh cấp 3 trường Đồng Khánh (Huế) đã là nàng thơ của Trịnh Công Sơn . Mối tình kéo dài từ năm 1964 đến 1967, chất chứa biết bao hoài niệm. Chúng tôi xin giới thiệu một bức thư tình tuyệt hay của Trịnh gửi Dao Ánh …
Ngô Vũ Dao Ánh (lúc 16 tuổi) và Trịnh Công Sơn thời trẻ
(Ảnh do gia đình nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cung cấp)
Mối tình Dao Ánh và Trịnh Công Sơn đã được viết thành sách vừa xuất bản gần đây có tên “Trịnh Công Sơn – thư tình gửi một người”. Cuốn sách in hàng trăm thư tình Trịnh Công Sơn gửi cho Dao Ánh , mối tình kéo dài từ năm 1964 cho đến 1967. Lúc đó, Trịnh Công Sơn đang đi dạy trên B’lao (Lâm Đồng) mới 25 tuổi sau khi tốt nghiệp Sư phạm Quy Nhơn và Dao Ánh đang là cô nữ sinh 16 tuổi học tại Huế. Nhiều ca khúc nổi tiếng được Trịnh Công Sơn viết tay tặng riêng cho Dao Ánh trong thư như : Còn tuổi nào cho em , Tuổi đá buồn , Mưa hồng …
Mới đây, bà Dao Ánh đã gửi tặng Gác Trịnh (Huế) bức thư tình của Trịnh Công Sơn gửi bà năm 1965 . Trịnh Công Sơn với vốn ngôn ngữ tài hoa đã làm rung động tận tâm can bao nhiêu thế hệ nghe nhạc. Một lần nữa, những ngôn ngữ tài hoa ấy lại chảy tràn trên những trang thư tình lãng mạn.
Chúng tôi xin được trích đăng lại bức thư tình của nhạc sỹ tài hoa Trịnh Công Sơn (với sự đồng ý của ban quản lý Gác Trịnh) để những ai yêu mến Trịnh thêm một lần được chạm tới tâm hồn ông…
B’lao, 23 tháng 9/ 1965
Ánh
Buổi trưa anh không ngủ được nên lang thang ra phố. Mưa nhỏ rồi lớn dần đuổi anh về đây. Anh đang ngồi ở câu lạc bộ sát bờ hồ. Bờ hồ bây giờ đã điêu tàn lắm. Người ta đã chặt bỏ những cây khô sống bao nhiêu năm nay trong hồ. Có một vài chỗ nước rút xuống chỉ còn bùn đen.
Buổi chiều gió thật lạnh. Anh đã mặc áo ấm suốt ngày ở đây.
Anh nhớ Ánh lắm mà ngôn ngữ thì quá chật hẹp, quá cũ kỹ không chuyên chở nổi sự nhớ nhung này. Nên anh đã nói đã nhắc mãi mỗi ngày mà vẫn chưa đỡ nhớ tí nào.
Ngồi ở đây nhìn ra từng ô cửa kính rất lớn anh mơ hồ thấy mình như lạc về một vùng đất nào mới sơ khai. Cả thành phố chỉ xanh rì những cây cối và từng khoảng đất đỏ.
Hiện giờ ở Tỉnh đang có một buổi văn nghệ sẽ tổ chức vào cuối tháng. Anh phụ trách chương trình này nên bây giờ vẫn còn được rỗi rảnh không làm việc gì cho đến cuối tháng.
Anh nhớ Ánh lạ lùng đó Ánh. Mà Ánh thì chỉ mong anh chóng đi xa, anh nghĩ thế. Mùa thu hầu như không có trên miền này. Ở đó lá đã bắt đầu vàng chưa Ánh.
Bức thư tình Trịnh Công Sơn gửi Dao Ánh
Những bụi bờ dọc theo những con dốc đất đỏ ở đây anh vừa đi qua ban sáng và thấy lá của hoa mặt trời xanh um. Anh ngắt gửi về Ánh một ngọn. Hoa thì vẫn chưa nở. Có lẽ đợi hôm nào có mặt trời thì hoa mới bắt đầu hiện diện và cũng là mùa mà anh đã gọi là mùa sinh nhật của hướng dương.
Anh đang nhớ thầm về những buổi chiều thứ năm ở đó. Chỉ mới có vài ngày mà tưởng chừng như ngàn đời qua đi trên anh. Anh chợt nghĩ rằng cuộc đời buồn bã như thế này sao chúng mình không tha thiết với nhau hơn.
Những ai chưa bao giờ đi, chưa bao giờ sống qua nhiều nơi, sống qua những ngày mưa ngày nắng trên bao nhiêu vùng đất khác nhau, chưa bao giờ nhìn sâu vào bên sau của con người thì hẳn mới còn đua đòi vào những hời hợt nhạt nhẽo của đời sống được.
Buổi trưa trời âm u và hơi lạnh.
Anh vẫn không thể nào không thấy sự lạc lõng của mình nơi đây.
Ở trường Đồng Khánh giờ này chắc Ánh đang mài miệt với những bài vở mới. Sân trường đã có những cây hoa vàng, tím mọc nhoi lên trên từng bãi cỏ xanh. Đúng không. E cũng phải mất đến hằng mấy tháng anh mới tạm ổn mình được vào với thành phố này lại.
Bây giờ anh không còn làm người gác hải đăng, Ánh cũng thôi làm người mang lửa. Chúng mình làm sao níu cho được tay nhau trong suốt mùa Đông này ?
Cơn mưa như thác đổ ngoài trời. Đồi trà bây giờ mù mịt không còn thấy gì.
Anh đang có Ánh – tuổi – nhỏ trước mặt trong chiếc hộp nhỏ anh mang theo đó.
Mưa rất buồn. Như một điệp khúc dai dẳng trong mấy tháng mùa Đông này.
Ánh ơi
Nếu còn sự yêu thương và nhớ nhung nào trong Ánh thì hãy gửi làm quà cho anh để anh coi thường những tháng ngày ẩm mục nơi đây
Nhớ vô ngần
Thân yêu, yêu dấu
Trịnh Công Sơn (ký tên)
Nguồn (blog: Phố núi và bạn bè…)
PHẦN PHỤ LỤC
Về Một Quảng Đời Của Trịnh Công Sơn
Một số nam sinh lớp “Sư Phạm Quy Nhơn “(2 năm giáo viên tiểu học (cấp1 )
Hai năm tại trường Sư phạm Quy Nhơn 1962-1964
Tôi học chung một khóa Sư phạm với Trịnh Công Sơn, khóa I, ngày 22- 4-1962 khóa đầu tiên mở ra ở Quy Nhơn. Tên gọi là khóa Thường Xuyên 2 năm. Tiêu chuẩn thi vào ít nhất phải có Tú Tài I . Tuy nhiên, khóa ấy đa số thí sinh đều đã có Tú Tài II, một số đã có một hoặc hai chứng chỉ Đại học. Trong số 300 giáo sinh được chấm đậu đa phần đều là người Huế, chiếm khoảng 60 phần trăm, 40 phần trăm còn lại rải rác các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Nha Trang lên tận các tỉnh cao nguyên như Đà Lạt, Lâm Đồng, Pleiku, KonTum…
Đa số chúng tôi lúc ấy đều là con nhà nghèo, hoặc học hành dở dang hoặc không đủ khả năng tài chánh vào Sài Gòn hoặc ra Huế để vào Đại học. Cho nên cố thi vào Sư phạm để chắc chắn trong hai năm sẽ có công ăn việc làm nuôi bản thân và giúp gia đình. Nhắc lại ở đây, lúc ấy, Bộ Giáo Dục và Bộ Y Tế rất thiếu nhân viên. Khóa nào vừa đào tạo xong là được bổ nhiệm liền, lương lại tương đối cao. Trong khi những ngành khác như Công chánh,Nông Lâm Súc tốt nghiệp ra trường, nằm nhà nhiều năm vẫn chưa được tuyển dụng.
Trịnh công Sơn theo ban Pháp văn, tôi theo ban Anh văn. Những ngày mưa gió ủ ê,không đi ra ngoài được vì đất nhão, chúng tôi nằm khoèo ở nhà, Sơn kể cho tôi nghe về cuộc đời Sơn, nhiều chuyện vui buồn lẫn lộn. Chuyện gia đình Sơn là một trong những chuyện buồn. Cha mất sớm, gia đình khánh kiệt, má Sơn phải chật vật lắm mới nuôi nổi bầy con. Sơn phải bỏ học, về lại Huế, phụ giúp mẹ. Sư phạm Quy Nhơn là con đường ngắn nhất có thể giúp Sơn đạt được ý nguyện này. Đơn giản vậy thôi!
Hiệu trưởng trường là thầy Đinh thành Chương. Trường Sư Phạm và trường Kỹ Thuật Quy Nhơn được ngân sách Mỹ tài trợ xây cất rất qui mô và tân kỳ, tọa lạc tại Khu Sáu, sát bờ biển, khoảng giữa đường từ phố Quy Nhơn đến Ghềnh Ráng, nơi thi sĩ Hàn Mặc Tử an nghỉ ngàn thu. Đến một chút nữa là Quy Hòa, Trại Cùi, ở đó có nhiều bà Xơ tận tụy một đời chăm sóc cho bệnh nhân mắc phải chứng nan y, bệnh phong cùi. Lúc bấy giờ, thành phố Quy Nhơn hãy còn tiêu điều, xơ xác. Ngay con đường chính Gia Long chạy từ Núi Một (ga xe lửa ) đến bến Cảng hãy còn nhiều ngôi nhà đổ nát, vôi vữa hoang tàn trong chiến tranh chưa có ai dọn dẹp. Đường Lê Lợi chạy từ trung tâm phố thẳng ra biển còn rất nhiều nhà tranh, vách lá. Gợi lại một vài cảnh cũ để cho thấy chính phủ lúc ấy có dụng ý khi cho xây hai ngôi trường đại qui mô, đem về đây hơn một ngàn giáo sinh và học sinh kỹ thuật mỗi năm là để vực dậy nền kinh tế ở đây.
Để giới thiệu và quảng bá rộng rãi cho nhiều nơi biết tiếng về trường Sư Phạm, Ban Giám Đốc trường cho thành lập Ban văn nghệ, sẽ trình diễn một chương trình độc đáo chưa từng có ở Quy Nhơn từ trước đến giờ. Trịnh Công Sơn được bầu làm trưởng ban chịu trách nhiệm tổng quát, Thanh Hải phó ban thứ nhất chịu trách nhiệm về nhạc, Võ văn Phòng phó ban thứ hai chịu trách nhiệm một vở kịch thơ nhan đề “Tiếng cười Bao Tự”. Tôi được chọn phụ trách phần thổi sáo đệm thơ trong suốt vở kịch dài hơn 45 phút. Trong dịp này tôi mới biết và quen Trịnh Công Sơn. Buổi trình diễn được dự trù đúng vào ngày Song Thất năm đó (7/7/1962) chứ không phải đợi đến ngày mãn khóa như Đinh Cường nói.
Trong thời gian này,Trịnh Công Sơn sáng tác trường ca ” Tiếng hát Dã Tràng” hay gọi ngắn hơn là “Dã Tràng ca” làm tiết mục mở màn mà cũng là tiết mục đặc sắc nhất, công phu nhất. Nhạc trưởng Trịnh Công Sơn với ban hợp xướng do anh tuyển chọn gần 50 người, khổ công trong ba tháng trời tập luyện đã thành công tuyệt vời trước sự ngac nhiên đầy thích thú của quan khách và khán giả. Tôi không ở trong ban hợp xướng đó nên không thuộc bài này chỉ nhớ lõm bõm câu được, câu mất xin ghi ra đây:
Tiếng Hát Dã Tràng
Dã tràng…Dã tràng… Dã tràng…
Dã tràng xe cát biển Đông, Dã tràng xe cát hoài công.
Trùng dương ơi…Trùng dương ơi vỗ sóng vào bờ …
…Thôi còn gì nữa đâu, còn gì nữa đâu…Đời lên cơn đau…
Xuân , Hạ, Thu, Đông bốn mùa làm rét mướt…
Tôi gọi tên tôi giữa nước non ngàn…
Cũng trong thời gian học Sư phạm, anh còn sáng tác những nhạc phẩm khác như Biển nhớ, Nhìn những mùa thu đi, Nắng Thủy tinh và một số nhạc thiếu nhi cho chúng tôi sử dụng đi thực tập, dạy các em nhỏ. Những bản nhạc ngắn, dễ hát, dễ nhớ như Ông Tiên vui, Ông mặt trời. Tôi xin ghi lại một bài tượng trưng:
Ông Tiên vui.
Ông Tiên vui,ông có cái râu dài.
Đêm ông về nằm yên trên đỉnh mây.
Hôm em lên Ông chợt đi đâu vắng!
Lúc em về,em buồn đến ngẩn ngơ.
Ông Tiên vui Ông có cái căn nhà,
trên ngọn đồi hằng đêm Ông ghé qua.
Hôm em lên Ông chợt đi đâu vắng!
Lúc em về em buồn đến ngẩn ngơ.
Xin nhắc lại ở đây, Quy nhơn lúc ấy còn nghèo lắm. Cả thành phố có mỗi một quán kem duy nhất, vừa bán kem, vừa bán cà phê thuốc lá, bia, trà. Đó là quán Phi Điệp, nằm trên đường Phan Bội Châu, đối diện với hội trường Quy Nhơn, nơi đã trình diễn văn nghệ. Mỗi buổi chiều hoặc tối, anh chị em nào có tiền thì vào quán kêu một bình trà ngồi với nhau nhâm nhi nghe nhạc. Khá một chút nữa thì kêu chai bia với một tô bò viên gân, ngầu pín của ông ba tàu đậu cái xe phở trước cửa quán. Thế là sang lắm rồi. Còn những anh chị nào “bô xu” thì ra biển ngồi ngắm trăng suông. Biển Quy Nhơn là biển bùn nên cát ở đó màu vàng xỉn trông dơ dáy,không trắng như biển Nha Trang. Dọc theo bãi biển là một hàng dương, chạy dài đến bệnh viện Nguyễn Huệ là xóm chài. Tuyệt nhiên không có một lều quán hay kiosque nào bán cà phê, bia rượu gì cả. Trịnh Công Sơn và Tôn Nữ Bích Khê có hẹn hò ra đó với ông Đinh Cường thì cũng chỉ để ngắm trăng vàng vỡ vụn trên sóng biển mà thôi.
BA NĂM TẠI BLAO, tức BẢO LỘC
Sau hai năm, mãn khóa, chúng tôi tốt nghiệp ra trường. Tôi và Trịnh Công Sơn cùng bốn giáo sinh khác là Nguyễn thị Ngọc Trinh (Huế), Nguyễn văn Sang, Trương khắc Nhượng, Đỗ thị Nghiễn (Nha Trang) cùng được bổ nhiệm chung một Sự vụ lệnh đáo nhậm nhiệm sở Ty Tiểu Học Lâm Đồng. Sự vụ lệnh mang số 961-GD/NV/38/SVL tạm thời tuyển bổ do ông Nguyễn hữu Quyến, Xử lý thường vụ Hiệu Trưởng Trường Sư Phạm Quy Nhơn ký ngày 4/8/1964.
Sau hai năm tập sự chúng tôi được điều chỉnh tuyển dụng bằng Nghị định mang số 596-GD/NV/BC/QĐ do XLTV Đổng lý Văn Phòng, Phụ tá chuyên môn Phạm văn Thuật ký ngày 6/5/1966. Đến năm1967, chúng tôi mới được chính thức bổ dụng bằng Nghị định mang số 687/GD/NV/3BC/NĐ kể từ ngày 1/9/1966 do T.ỤN Ủy Viên Giáo Dục Đổng lý văn phòng Huỳnh ngọc Anh ký ngày 7/4/1967. Với chỉ số lương 320 cộng thêm phụ cấp đắc đỏ vùng cao lúc bấy giờ,chúng tôi lĩnh được 5200 đồng, tương đương 2 lượng rưỡi vàng Kim Thành. Vật giá lại rất rẻ. Tiền ăn, ở mỗi tháng chỉ hết 600 đồng. Chai bia con cọp 3 đồng. Một dĩa thịt bò lúc lắc 4 người ăn giá 7 đồng. Tô phở 3 đồng, cà phê loại ngon 1 đồng. Cơm bữa với ba món 6 đồng. Thời gian từ 64-67 chúng tôi sống sung sướng, tiêu pha rộng rãi mà vẫn còn rủng rỉnh.
Tôi từ Nha Trang lên theo đường Nha Trang – Đà Lạt – Bảo Lộc. Trịnh Công Sơn từ Huế bay vào Sài Gòn, rồi từ Sài Gòn đi xe đò lên Bảo Lộc. Không hẹn mà gặp lại nhau trên bến xe vắng vẻ, thưa thớt bóng người. Bõlao – Bảo Lộc là đây sao? Một phố quận vào chiều thứ sáu sao mà vắng lặng, buồn hiu hắt. Trời lại mưa lâm râm, lành lạnh. Hai chúng tôi, mỗi người một va li quần áo nhẹ tênh. Lang thang tìm người hỏi thăm đường đến Ty Tiểu Học Lâm Đồng. Lúc bấy giờ, Thị xã Đà Lạt biệt lập với tỉnh Lâm Đồng. Tỉnh Lâm Đồng chỉ có vỏn vẹn hai quận: Blao (Bảo Lộc) và Djiring (Di Linh). Trước năm 1960, Tòa hành chánh Tỉnh đặt ở Di Linh. Sau dời về Bảo Lộc mới mấy năm khi chúng tôi đến, nên trông nó như một thị trấn nhỏ vừa mới bắt đầu tạo dựng. Chúng tôi tìm được đến Ty thì trời đã sụp tối mặc dù chưa tới 6 giờ. Sương mù bốc lên từ mặt đất, bay là đà dưới chân. Ty chỉ cách bến xe non nửa cây số. May mắn, lúc ấy bác lao công đang khóa cửa chuẩn bị ra về. Khi biết chúng tôi là giáo viên mới đổi đến, bác ân cần mời về ở tạm tại nhà bác qua đêm.
Đêm đó chúng tôi trải chiếu, chăn dưới thềm nhà, năm người bạn trẻ, trừ anh Lãng nằm trên giường, tuổi chỉ từ hai bốn đến hai sáu,cùng nhau trao đổi những câu chuyện quê hương đi dần từ Sài Gòn ra đến Huế rồi thiếp vào giấc ngủ. Lúc bừng thức dậy là đã 9 giờ sáng.
Đến sáng thứ hai, trình diện tại Ty để chờ bổ nhiệm, chúng tôi gặp hầu hết các bạn khác từ các nơi cũng đã đến từ ngày thứ bảy, chủ nhật. Sư phạm Quy Nhơn đủ mặt: Nguyễn thị Ngọc Trinh, Đỗ thị Nghiễn, Trương khắc Nhượng. Sư phạm Sài Gòn: Nguyễn hảo Tâm, Nguyễn văn Ba, Nguyễn văn Tâm, Trần văn Nghị. Nữ có các cô Nguyệt, Châu, Hải. Sư phạm Long An chỉ có một ngoe là Ngô thanh Bạch. Ty trưởng đương thời là ông Trương cảnh Ngôn sắp về hưu. Tôi, Trương khắc Nhượng, Đỗ thị Nghiễn và Nguyễn hảo Tâm được bổ về trường Tiểu học Tân Bùi, cách Bảo Lộc 5km. Nguyễn thị Ngọc Trinh bổ về trường Nữ Bảo Lộc ngay trung tâm phố. Nguyễn văn Ba ở tại Ty phụ tá kế toán. Riêng Trịnh Công Sơn được biệt nhãn hơn, bổ về một trường Sơ cấp Thượng, ở sát nách Ty chừng non cây số, với chức Trưởng Giáo. Nhắc lại ở đây, theo qui chế của Bộ Giáo Dục, một trường chỉ có bốn lớp trở xuống gọi là truờng Sơ cấp. Người đứng đầu gọi là Trưởng Giáo, không có phụ cấp chức vụ 200 $, nhưng vẫn phải đứng lớp. Trường từ năm lớp trở lên là trường Tiểu học. Đứng đầu là Hiệu trưởng. Trường dưới chín lớp vẫn phải phụ trách một lớp, có lãnh phụ cấp chức vụ. Từ 10 lớp trở lên, Hiệu trưởng được miễn dạy. Ngạch chúng tôi là Giáo học bổ túc tập sự. Chỉ số lương 320, do ngân sách Bộ Giáo dục đài thọ như đã nói ở trên. Sau khi phân bổ xong, chúng tôi được Ty cho phép một tuần ở nhà để lo thu xếp nơi ăn chốn ở. Thứ hai tuần tới sẽ trình diện nhiệm sở mới. Khi về đến nhà, chúng tôi bò lăn ra cười với cái chức Trưởng Giáo của Sơn. Vì lần đầu mới được nghe cái chức này, ai cũng liên tưởng tới các chức Trưởng lão hay Giáo chủ trong Ma giáo của tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung.
Mấy ngày thong thả, chúng tôi đi dạo khắp nơi đểạ tìm nhà trọ nhưng không nơi nào vừa ý. Nhất là nhà vệ sinh thì khiếp quá. Có ai đó mách chúng tôi, ở về phía Ty công chánh có ngôi biệt thự vừa xây xong, chủ nhà ngỏ ý muốn cho thuê, nhưng hơi đắt. Tôi và Sơn đến ngay. Nhà rất đẹp, tọa lạc trên một khu quang đãng, thoáng tầm nhìn. Chủ nhà là một người đàn bà trạc ba mươi, người mảnh dẻ, hiện là trưởng phòng kế toán của Ty công chánh Lâm Đồng. Sau khi nói chuyện dăm phút chúng tôi bằng lòng thuê toàn bộ căn nhà, trừ cho bà và đứa con gái một phòng để ở, với giá 1200 đồng một tháng. Trên đường về nhà Sơn lẩm bẩm: “Đàn bà mà tên là Phi, lại lót thị. Thị Phi…Thị Phi !”. Sơn tủm tỉm cười một mình. Tôi biết Sơn đang nghĩ về bà chủ nhà, trẻ, sống một mình.
Chúng tôi rủ thêm hai người bạn nữa để chia phòng, bớt tiền. Anh Nguyễn hảo Tâm và Nguyễn văn Ba đến xem nhà và đồng ý ngay. Tôi và Sơn có công tìm nhà nên được ưu tiên ở căn phòng trước, có cửa sổ quay ra mặt đường. Tâm và Ba căn phòng kế. Bà chủ cùng đứa con gái ở phòng trong cùng. Những ngày chúng tôi sống trong ngôi “biệt thự” của bà Trần thị Phi thật là vui nhộn. Cũng chính trong căn phòng có khuôn cửa sổ ngó ra con đường đất đỏ trước mặt của căn nhà này, Trịnh Công Sơn đã sáng tác các nhạc phẩm: Chiều một mình qua phố, Lời buồn thánh, Vết lăn trầm và Ca khúc da vàng.
Ngày lãnh lương đầu đời
Mới ngày nào vừa trình diện để nhận nhiệm sở, thoáng cái đã đến cuối tháng lãnh lương. Ngày lãnh lương đầu tiên,chúng tôi ai nấy đều háo hức đến Ty thật sớm để ký tên vào sổ lương, lãnh một món tiền lớn do chính tay mình làm ra, món tiền mà từ xưa tới nay cá nhân tôi chưa hề cầm được trong tay. Hai năm trọ học ở Quy Nhơn, cha mẹ tôi phải khó nhọc lắm mới dành dụm được 600$ hằng tháng để gửi cho tôi chi tiêu. Có tháng chậm tới ngày thứ mười mà tôi vẫn không dám viết thư dục, vì tôi hiểu rõ hoàn cảnh của tôi: con nhà nghèo.
Lãnh lương xong, ra khỏi cửa, Sơn sải chân đi thật lẹ. Sơn vốn cao, chân dài. Tôi thấp, chỉ tới tai Sơn, chân ngắn, nên phải nhảy ba bước một, mới bắt kịp. Vừa thở, vừa kêu Sơn đợi. Sơn không đáp cứ cắm đầu đi thẳng. Vừa vào phòng, Sơn khóa ngay cửa lại. Tôi ngạc nhiên coi anh chàng làm cái trò gì đây. Sơn để nguyên quần áo, giầy vớ nằm vật ngửa ra đi văng, tay rút trong túi quần ra cái phong bì tiền lương lúc nãy, xé phong bì, nắm hết nắm tiền 5200$ gồm giấy 5$, 10$, 50$ tung lên trên trần nhà. Giấy bạc mới tinh, phát ngân viên Thành vừa lãnh từ kho bạc ra, rơi lả tả xuống người Sơn, rơi xuống đi văng. Sơn hốt lên, tung trở lại. Sơn cười sằng sặc. Sơn cười ha hả. Tiếng cười nghe là lạ. Nó pha lẫn niềm vui và nỗi phẫn hận. Rồi Sơn chửi thề: ” Đù mạ mi ! Đù mạ mi ! Tiền! Tiền!”. Đó là lần đầu tiên tôi nghe Sơn chửi thề. Và cũng là lần duy nhất suốt ba năm sống chung với nhau. Tôi để mặc Sơn tự do trong những giây phút ấy. Tôi không muốn xen vào để quấy rầy Sơn đang đắm chìm trong thế giới riêng tư của mình. Tôi yên lặng đếm số tiền của mình một cách chậm rải. Từng tờ, từng tờ. Tôi để mười ngón tay tôi cảm nhận đầy đủ cái cảm giác sung sướng đang rung lên từng chập với tiếng kêu sột soạt của những tờ bạc mới chạm vào nhau. Cái âm thanh sao mà dễ thương thế. Cái mùi giấy bạc mới sao mà thơm thế! Đầu tôi phát họa mau lẹ một kế hoạch. Hãy trích ra 3000$, ra bưu điện mua ngay một cái “măng-đa” gửi về cho Má. Chắc Má mừng và vui lắm khi nhận được số tiền này do thằng con gửi về. Thằng con do một tay bà nuôi nấng chắt chiu, dành dụm từng đồng của gánh hàng đè nặng trên vai bà hằng ngày, để ngày hôm nay bà sung sướng và hãnh diện âm thầm không dám thổ lộ cùng ai. Con bà đã thành ông giáo!
Chiều hôm đó chúng tôi không ăn cơm nhà. Phải tự khao một chầu linh đình mới được. Tại nhà hàng Ngọc Hương (bây giờ ông bà chủ quen mặt chúng tôi quá rồi) có mặt đông đủ những ông giáo trẻ vừa mới có được thành tích: một tháng công vụ. Đêm đó chúng tôi tưng bừng ăn uống, cười nói hả hê. Ra về lúc chín giờ,điện cúp. Bá vai nhau đi khệnh khạng, xiên xẹo giữa phố vắng dày đặc sương mù. Đến cuối dốc cầu, xếp hàng ngang, vạch quần,vừa đi vừa tè, vẽ thành rồng, rắn loang lổ trên mặt đường nhựa. Ôi! một thời tuổi trẻ vô tư, hồn nhiên.
Một thầy, một cô, một chó cái
Tôi không hình dung được lúc ông Cao Bá Quát làm Giáo thụ ở Quốc Oai cái cảnh nó ra làm sao mà ông tả oán bằng những câu thê thảm:
Một thầy, một cô, một chó cái. Học trò dăm đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi.
Nhưng cái cảnh ông Trưởng giáo Trịnh Công Sơn ngồi dạy học ở ngôi trường Sơ cấp Thượng thì thật là vừa bi vừa hài. Mỗi buổi sáng, cái hoạt cảnh ông đi dạy đã là buồn cười rồi. Tôi và Sơn có điểm giống nhau là không bao giờ đeo đồng hồ. Tôi dạy buổi chiều nên tha hồ nằm nướng trên giường. Sơn phải dậy sớm lúc bảy giờ để đến trường. Những ngày có mặt trời thì nhìn bóng nắng mà đi. Những ngày sương mù hay mưa dầm thì lắng nghe tiếng kèn lính chào cờ ở một đồn lính nào đó rất xa vọng lại văng vẳng. Te te…Tò tí te…Tò tí te… Sơn xỏ vội chiếc áo ka ki màu vàng cụt tay (chiếc áo này tôi thấy mặc từ lúc còn ở trường Sư phạm), đôi giầy ba-ta màu nâu, nách trái kẹp cuốn vở soạn bài cuộn tròn, miệng ngậm ống vố, chân sãi bương bã đến trường. Trường không xa lắm, non nửa cây số, Sơn lội bộ hằng ngày, trên con đường đất đỏ, càng lúc càng lên dốc. Ngày nắng thì bụi đỏ mù trời, ngày mưa thì nhèm nhẹp. Đi một lúc phải tìm chỗ nào có cây hay cục đá để gạt bớt đất nhão dính vào đế giày càng lúc càng nặng. (Ấy thế mà ông Trịnh Cung đã tưởng tượng ra cảnh Trịnh Công Sơn gò lưng đạp xe đến trường, xa năm, bảy cây số). Có hôm Sơn ngồi chờ mãi mà vẫn không nghe thấy tiếng kèn đồng giục giã tò te, tí te, cứ ngồi ôm đàn tìm nốt nhạc. Đến khi sương tan hết, mặt trời ló ra thì đã gần đứng bóng. Ba chân, bốn cẳng Sơn vội vã như ngựa phi nước đại đến trường.
Một hôm tôi bỗng nảy ý định đến xem ngôi trường của ông Trưởng giáo nó ra làm sao. Leo hết con dốc ngắn, ngôi trường hiện ra trên một khoảng đất trống, xung quanh trơ trọi không một cây cối gì cả. Trường được ngăn đôi thành hai lớp học. Mái tranh, vách đất, không cửa nẻo. Trong lớp, một bàn vuông cho thầy, sáu bộ bàn ghế dài cho trò. Trên vách treo một bảng đen, màu đen bạc thếch ở giữa. Chắc trải nhiều năm tháng không ai buồn sơn lại. Bụi đỏ bám khắp nơi. Từ vách đến bàn ghế thầy lẫn trò. Tôi đến đó khoảng mười giờ. Học trò hầu hết là các em bé người Thượng, chỉ xen lẫn vài em người Kinh, có lẽ con của một vài gia đình lính đóng đồn gần đó. Tất cả đều bẩn thỉu. Có đứa ở trần, đánh độc chiếc quần xà lỏn. Có đứa cũng đủ bộ nhưng màu đất đỏ đã nhuộm từ ống quần trở lên nên không còn nhận ra được màu nguyên thủy của nó là màu gì. Thầy Sơn đang ngồi tư lự, miệng ngậm ống vố, mắt nhìn lơ đãng về phía cánh rừng xa xa mặc cho đám học trò làm gì thì làm. Một túm đang gò lưng trên bàn, méo mồm méo miệng nắn nót viết bài theo trên bảng. Một túm đang bò lê bắn bi dưới đất. Cuối lớp vài đứa đang dựa lưng vào vách, há mồm ngủ.
Thấy tôi vào, Sơn cười méo miệng: -Tới đây chi cha? – Tới coi ông Trưởng giáo làm ăn ra sao cho biết, tôi cười cười – Còn ông già Thống đâu? – Ông Thống dạy buổi chiều. – Có mấy lớp anh Sơn – Ba, tôi dạy lớp ba, ông già Thống dạy lớp một và hai. – Học sinh đông không? – Thì ông thấy đó, bữa nào không đi hái trà thì được hai chục, bữa nào cha mẹ nó cần thêm nhân công thì mươi, mười lăm đứa.
Những đứa học trò thấy có người lạ thì cứ trố mắt nhìn. Sơn gõ gõ cây thước lên bàn làm hiệu. Đám học trò ngưng hẳn cuộc chơi chờ lệnh thầy. Sơn nói: “Hôm nay thầy có khách,cho các em về sớm”. Đám trẻ con mừng hớn hở ra mặt, vội thu xếp sách vở, ùa ra khỏi cửa. Trong giây lát, tất cả trở về trong yên lặng. Sơn ngồi trầm ngâm, nán lại thêm chút nữa, đảo mắt nhìn quanh một vòng rồi tặc lưỡi đứng lên. Hai chúng tôi yên lặng xuống đồi. Trong thâm tâm có lẽ mỗi người đang theo đuổi một ý nghĩ khác nhau. Sơn nghĩ gì? Tôi thì nghĩ “May cho ông thi sĩ họ Cao ngày xưa, ngồi dạy học ở nơi khỉ ho, cò gáy còn có một cô, một chó cái để an ủi. Ngày nay ông nhạc sĩ họ Trịnh cũng ngồi dạy một nơi y như vậy mà không có gì bầu bạn ngoài một nỗi buồn cô quạnh”. Trên đường về, tôi gợi ý với Sơn nên nhập hai buổi lại thành một, để có thêm ông già Thống cho vui .Sơn đồng ý là ý kiến hay.
Sau khoảng vài tháng đầu niên khóa 64-65, ông Trương cảnh Ngôn về hưu, ông Lê cao Lợi, thanh tra kỳ cựu, có tu nghiệp ở Mỹ một thời gian, được Bộ đề cử chức Ty Trưởng thay ông Ngôn. Đây là thời gian vàng son của Trịnh Công Sơn. Ty trưởng Lợi, trung niên, có tâm hồn văn nghệ, thích thơ, nhạc, nên đối với một người như Sơn ông dành cho nhiều dễ dãi. Đôi lúc nhắm mắt làm ngơ cho Sơn dùng thì giờ dạy học làm việc riêng của mình. Việc này khiến một vài giáo viên già, lâu năm trong nghề so bì.
Khi chúng tôi đặt chân lên Bảo Lộc, trời đã vào thu. Những tháng đầu hãy còn lạ nước, lạ cái, không biết đi đâu, làm gì để hết thì giờ vì chỉ phải dạy có một buổi, chúng tôi có suốt những buổi chiều lang thang. Cứ hết “những bước chân âm thầm” trong khuôn viên trường Nông Lâm Súc im lìm vắng vẻ với những tàn cây sao, cây gõ, cây gụ cao vút tận trời xanh, lại đến đoạn đường quốc lộ I chạy xuyên qua con phố Blao lèo tèo vài quán ăn dọc đường ngắn củn. Chúng tôi lại đi vòng bờ hồ cho đến khi chiều xuống hẳn, sương mù bắt đầu xuất hiện trên mặt hồ, ban đầu mỏng rồi dầy dần, cho đến lúc che khuất một chòm cây khô giữa hồ, chỉ còn thấy một thân cây khô với những cành khẳng khiu vươn lên trơ trọi giữa khoảng trời mây. Đến lúc đó ai cũng cảm thấy mỏi chân và muốn vào quán ngồi uống cà phê, hoặc uống bia nghe nhạc, chờ tối để về nhà tìm giấc ngủ. Trong cái không gian và thời gian đó Trịnh Công Sơn cảm hứng sáng tác nhạc phẩm Chiều một mình qua phố. Cái lạ là suốt thời gian gần ba năm làm nhạc tại Bảo Lộc, những bản Chiều một mình qua phố, Lời buồn thánh, Vết lăn trầm và tập Ca khúc da vàng, mặc dù đã có tiền nặng túi, Sơn vẫn không có nổi cây đàn (hay Sơn không muốn mua?). Sơn dùng cây đàn ghi ta của cô Đỗ thị Nghiễn. Cây đàn này đã giúp Sơn ghi lại những nốt nhạc mà Sơn thai nghén trong những lúc đi dạy hoặc lang thang với chúng tôi ban ngày, tối về chúng tôi say sưa trong giấc ngủ thì Sơn ôm đàn say sưa dò lại những âm thanh đang chập chờn ẩn hiện trong đầu Sơn. Sau những đêm như thế, Sơn phờ phạc hẳn. Một giỏ rác đầy tràn những tờ giấy bản dùng để quay ronéo Sơn chép vội những dòng nhạc vừa xuất hiện trong đầu rồi chợt biến, vo tròn, ném, lại dò tìm. Sơn sợ làm ồn giấc ngủ của tôi, nên phải chận phím để tạo những âm thanh câm.
Nhạc phẩm đầu tiên được ấn hành
Mặc dù trước đó Trịnh công Sơn đã có nhiều nhạc phẩm rất hay như “Ướt mi”, “Thương một người”, “Biển nhớ”, “Nhìn những mùa thu đi”… nhưng chỉ chuyền tay nhau hát trong chốn bạn bè, không có điều kiện hay vì những lý do nào đó Sơn không thể xuất bản để phổ biến rộng rãi. Đến khi ở tại Blao, sau khi hoàn chỉnh nhạc phẩm “Chiều một mình qua phố”, Sơn quyết định mang đứa con của mình về Sài Gòn tìm nhà xuất bản. Sơn ở rịt tại Sài gòn gần ba tuần lễ .
Ông giáo già Thống chạy chiếc xe gắn máy Sach cũ kỹ, già nua không thua gì tuổi đời của ông, đến chỗ chúng tôi trọ, tìm Trịnh Công Sơn .
– Thầy ơi, thầy có biết ông Sơn ở đâu không ?, ông hỏi tôi.
– Ông ấy về Sài gòn rồi, ông ta không nói gì với ông sao?, tôi đáp.
– ối giời ơi, tôi chết mất, một mình tôi phải ôm ba lớp suốt ba tuần nay, ông rền rỉ.
– Thầy có biết lúc nào ông ấy về không?
– Không thể nào biết được.
– Thế thì tôi chết mất.
Nói xong ông thất thểu dắt xe ra ngõ. Tôi nhìn theo mà ái ngại cho tuổi già của ông. Vài năm nữa là về hưu nên ông cố đeo cái nghề này trong chốn đèo heo hút gió để mong được chút tiền hưu, an hưởng tuổi già. Tình trạng này còn dài dài đến với ông và ông vẫn phải ôm ba lớp và ông vẫn rền rĩ như mọi bận. Chúng tôi gọi đùa sau lưng, ông là ” Con ngựa già của…Trưởng Giáo Trịnh”, nhại lại nhan đề một truyện ngắn trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm miền Bắc.
Mấy ngày sau Sơn về. Phờ phạc, hốc hác. Tôi kể chuyện ông già Thống đi tìm. Sơn nói là sẽ xin lỗi sau. Xong, Sơn ngủ vùi suốt ngày hôm đó. Ngày hôm sau Sơn kể cho tôi nghe mọi việc về nhạc phẩm “Chiều một mình qua phố”.
Sơn nói: “Mình bán cho cha Duy Khánh. Chả trả có ba ngàn đồng bạc, mình nài thêm, chả nói, nhạc Phạm Duy là đắt nhứt mà cũng chỉ tới năm ngàn là cùng, ông là nhạc sĩ mới, giá vậy là cao lắm rồi”. Sơn tặc lưỡi nói tiếp : “Thôi cũng được, nhưng tiếc một điều là chả làm hư bài hát của mình. Mình bán đứt bản quyền rồi đâu có ý kiến chi được”. Tôi thắc mắc: “Hư là hư làm sao?”. Sơn nói: “Nhạc của mình êm, nhẹ để diễn tả nỗi buồn của những ngày lang thang trên phố vắng, đìu hiu, quạnh quẽ mà chả cứ rống lên như bò rống. Sơn giả giọng Duy Khánh, tay nắm lấy da cổ họng giựt giựt ,miệng rống lên “Chiều một mình qua phố…ố…ố…ố”. Tôi không sao nín cười được. Từ đó Sơn giải nghĩa cho tôi nghe về việc in ấn, tác quyền, phát hành, đại lý, gom tiền… rất là nhiều giai đoạn nhiêu khê, tác giả một nhạc phẩm hay một tiểu thuyết không thể nào tự mình làm được các việc đó, nên bị các nhà xuất bản bắt chẹt, đành phải bán bản quyền cho họ. Bây giờ tôi mới vỡ lẽ ra. Bấy lâu nay tôi cứ ngỡ các ông văn sĩ, nhạc sĩ có sách, có nhạc được in ra, đem bán khắp nơi chắc là giàu lắm.
Dịp này, Sơn kể cho tôi nghe về hai người bạn ở Sài gòn mà Sơn thường về ở chung, đi ăn, đi nhảy với nhau. Đó là Đinh Cường và Trịnh Cung. Đến giờ phút ngồi viết những dòng này, tôi vẫn chưa gặp và biết mặt Đinh Cường (trừ vài tấm hình trên Internet). Trịnh Cung thì tôi có thấy mặt một lần khi ông ta ghé Blao thăm Sơn, tại phòng chúng tôi đang ở, khoảng đầu năm 1965 thì phải. Hai hình ảnh của hai ông Trịnh thật tương phản. Ông họ Trịnh Công Sơn thì xuề xòa, giản dị trong áo kaki vàng bỏ vô quần tergal, với đôi giầy bata màu nâu muôn thuở (sau này có may thêm hai áo sơ mi, một nâu, một trắng bằng vải Nylfrance). Dạo ấy, Sơn có thêm một biệt danh do chúng tôi đặt là “Chàng nghệ sĩ nhứt y nhứt qưởn”. Có lẽ một năm Sơn mới hớt tóc một lần, tôi nghĩ vậy, vì không bao giờ tôi thấy Sơn có đầu tóc mới. Vẫn mái tóc thưa, mềm chạy dài xuống gáy. Hàng râu mép hung hung nâu, không phải râu, cũng không phải lông. Khi dài thì Sơn lấy kéo cắt bớt. Hàng râu cằm lại càng khiêm nhường. Từ sợi nọ sang sợi kia có thể mắc võng được, tôi hay đùa với Sơn như vậy. Còn ông họa sĩ họ Trịnh kia (thựa ra Trịnh Cung tên thật là Nguyễn văn Liễu) thì đỏm đáng trong bộ veston thời trang lúc bấy giờ, cà vạt hẳn hoi, giầy da láng bóng.
Trở lại câu chuyện “Chiều một mình qua phố”. Sơn hỏi tôi “Ông Lợi có nói gì không?” – “Không biết”. – “Nhưng ông đi lâu quá, tôi e cũng đã đến tai ông ta rồi”, tôi đáp. “Làm sao bây giờ?”, Sơn hơi lo. Tôi trấn an “Không sao đâu. Chiều nay ông lên Ty cười cầu tài một phát, nói vài lời xin lỗi rồi tặng ổng bản nhạc là xong ngay”.
Sơn thở phào nhẹ nhỏm. Sơn rút trong cặp ra hai bản, ký tặng ông Trưởng Ty một bản, tôi một bản. Bản đặc biệt in trên giấy láng, hai lớp. Ngoài bìa màu nâu,vẽ chàng nghệ sĩ tay trái xách đàn, tay phải vắt áo trên vai đang lầm lũi xuống con đường dốc. Hình vẽ này chắc chắn không phải của Đinh Cường hoặc Trịnh Cung, tôi nhớ vậy, vì nét vẽ chân phương không lập dị thường thấy có khuôn mặt nhọn, người dài ngoẵng và hai tay thì thường kẹp vào đùi của hai ông. Sơn ký tên đủ cả họ và tên dài theo hết bản nhạc theo chiều đứng. Cái gạch ngang chữ T trên đầu kéo dài che hết cả ba chữ Trịnh Công Sơn (không có hình con cá như ông Đinh Cường nói).
Chiều hôm đó, ở Ty về, Sơn hớn hở khoe với tôi: “Lúc vô Ty, mấy nhân viên văn phòng ái ngại cho tôi, chắc thế nào cũng bị ông Trưởng ty Lợi quạt một trận tơi bời vì tội bỏ nhiệm sở. Tôi cũng hơi lo. Nhưng lúc gặp ổng trong văn phòng riêng, tôi chìa bản nhạc ra trước và nói mấy lời phân bua lý do vắng mặt cùng lời xin lỗi. ổng cầm bản nhạc chăm chú xem, không nói gì. Lúc đó hơi yên tâm. Cuối cùng ông ta nói “Cám ơn anh bản nhạc, nhưng từ rày về sau đừng bỏ trường nữa, tội nghiệp ông Thống. Và tôi cũng sẽ khó đối xử với các giáo viên khác. Về âm nhạc mong anh thành công nhiều hơn”.
Cô nữ sinh tên Ngà, tiếng kèn đồng và lời buồn thánh
Khoảng đầu tháng tư năm 1965 chúng tôi đau buồn tiễn biệt người bạn trẻ Nguyễn văn Ba về bên kia thế giới. Ba là người ngoan đạo. Mỗi buổi sáng, đúng 5 giờ, dứt hồi chuông, là anh đã ra khỏi nhà để đến nhà thờ dự lễ nhứt, trong khi chúng tôi còn quấn kỹ trong chăn. Rất chăm chỉ, không sót một ngày. Hôm đó, anh về Sài Gòn để thăm gia đình,Việt cọng đắp mô ở đèo Madagui. Chưa có quân đội đến gỡ, anh tình nguyện xuống gỡ, thì mìn nổ giết anh chết ngay tại chỗ.
Cái chết của Nguyễn văn Ba, ấy thế mà lại giúp Sơn hoàn thành một bản nhạc bất hủ khác: Lời buồn thành. Số là trước đó, cứ trưa thứ sáu, sau khi bãi học, Sơn đi thẳng ra bến xe, lấy vé về Sài gòn. Xe nhỏ Minh Tâm, chỉ bốn tiếng đồng hồ là Sơn đã tiếu ngạo ở thành phố hoa lệ. Mười hai giờ trưa chúa nhật, Sơn lại leo lên xe đò, đánh một giấc. Năm giờ chiều đã có mặt tại bàn bi da Cà phê Ngọc Trang. Sau cái chết của Nguyễn văn Ba, Sơn rét, không dám về Sài Gòn hằng tuần nữa. Những ngày bó gối nằm nhà, Sơn thường ngồi tư lự trước bàn viết duy nhất dành cho cả hai soạn bài dạy, nhìn ra con đường đất đỏ. Mùa này, bông lau nở trắng xóa khắp nơi, dọc theo con đường dốc chạy dài từ trong buôn ra tới quốc lộ, băng ngang trước nhà chúng tôi. Buổi chiều, những cơn gió nồm thổi nhẹ tới từng cơn, lướt qua rừng bông lau, xô chúng ngã nghiêng xuống, rồi chúng bật dậy, tạo thành những âm thanh xào xạc nhè nhẹ, đều đều, buồn buồn. Chiều xuống dần, những vạc nắng cuối cùng chiếu xiên trên ngọn bông lau, lấp lánh sáng ngời. Gió lắng dần, không gian trở nên im ắng, tĩnh mịch. Chợt tiếng kèn đồng xa xa vẳng lại, lúc nghe, lúc mất thật hiu hắt buồn. Đó là lúc cô nữ sinh hàng xóm, cô Ngà, đúng giờ đi lễ. Chuông nhà thờ đang dồn dập từng hồi thúc giục con chiên đến giáo đường. Thật đúng như tên đặt, da cô trắng ngà, người mảnh mai với mái tóc thề chấm ngang vai, khuôn mặt phảng phất như Đức mẹ Maria. Rất dịu dàng trong dáng đi, mỗi buổi chiều cô đi lễ, đều đi ngang nhà chúng tôi. Hai tay ấp quyển Kinh Thánh trước ngực, đầu hơi cúi xuống, lặng lẽ, khoan thai bước. Đã bao lâu rồi, cái hình ảnh rất đẹp ấy, cái mầu áo dài trắng nổi bật trên nền đất đỏ, thấp thoáng ẩn hiện trong đám lau trắng, đã đi ngang nhà chúng tôi bao nhiêu chiều rồi mà chúng tôi không hề hay biết. Thật uổng phí! Chẳng là, cứ ba giờ chiều là chúng tôi đã túc trực quanh mấy cái bàn bi da để dành chỗ rồi chơi cho đến khi tắt điện mới mò về, thì làm sao có thì giờ để biết bên hàng xóm có người đẹp. Cái tên Ngà mãi về sau, theo dõi, lắng nghe mấy đứa em cô gọi mới biết. Từ ngày Nguyễn văn Ba chết chúng tôi buồn vì thiếu vắng một người bạn, nên không còn hứng thú trong những buổi lang thang nữa. Ngồi nhà suốt một tuần nên mới phát hiện ra bên hàng dậu có người ngọc. Cả ba : Sơn, Tâm và tôi bắt đầu theo đuổi. Nhưng cả ba đều không thành công. Lý do: tuổi trẻ ham chơi nên không bỏ hết thì giờ để đeo đuổi, thứ nữa là sĩ diện, quan trên trông xuống người ta trông vào, thầy giáo mà đi chọc gái thì ê càng quá. Tuy nhiên với tâm hồn nhạy cảm của người nghệ sĩ, Sơn đã thành công khi đưa tất cả những âm thanh mơ hồ của ngàn lau,của tiếng kèn đồng, tiếng chuông nhà thờ cùng dáng yểu điệu của cô Ngà hòa nhập với gió chiều nhè nhẹ để cấu thành chất liệu tuyệt vời tạo nên nhạc phẩm “Lời buồn Thánh”.
XUẤT XỨ VÀI NHẠC PHẨM – NHỮNG MỐI TÌNH MỘT THOÁNG MÂY BAY
Ngoài những nhạc phẩm như “Biển nhớ”,” Nhìn những mùa thu đi”,”Dã tràng ca”…Sơn sáng tác ở Quy Nhơn năm 62-64, “Chiều một mình qua phố”.”Lời buồn Thánh”,”Vết lăn trầm”…Sơn làm tại Bảo Lộc thì tôi biết rõ xuất xứ và thời gian như đã lượt qua ở trên, tôi còn biết thêm một vài nhạc phẩm khá hay liên quan đến những mối tình, mà anh gọi là “một thoáng mây bay” do anh kể lại, nay một chuyện, mai một chuyện. Thường thường những chuyện này được kể trong những chiều trời mây u ám, mưa rả rích, dai dẳng. Hai anh em chúng tôi đem đàn, sáo ra hòa điệu. Rồi cũng chán. Lại cà phê. Khói thuốc mịt mù, mờ khuôn cửa kính. Anh kể chuyện hấp dẫn, có duyên. Bất cứ chuyện gì anh kể tôi cũng đều thấy hay. Có khi khôi hài cũng rất dí dỏm. Vừa nói, vừa ra điệu bộ, làm cho câu chuyện rất sống động, lôi cuốn người nghe từ đầu đến cuối.
Diễm của “Diễm xưa”
Hai chị em, người chị là Bích Diễm, người em là Dao ánh, Sơn kể, hai chị em đều đẹp và quí phái, nhưng tôi theo cô chị. Mối tình học trò kéo dài từ khi tôi còn ở Huế cho đến lúc tôi vào Sài gòn trọ học. Cha mẹ Diễm khó và không thích tôi. Nhưng tôi vẫn cứ đeo đuổi hình bóng của Diễm và Diễm cũng chưa tỏ vẻ gì xa lánh tôi. Năm đó tôi thi trượt Bac IỊ Diễm thi đậu, vào Sài Gòn để vào đại học Văn khoa. Còn tôi thì lại về Huế, bỏ ngang việc học vì gia cảnh. Phần buồn, phần tự ái tôi không còn liên lạc với Diễm nữa và Diễm có lẽ thấy tôi lâu quá không thư từ, thăm hỏi, nghĩ rằng tôi đã quên, nên Diễm cũng lơ luôn. Đâu biết rằng đó thời gian tôi đau khổ nhất. Tôi đã nén mọi khổ đau trong im lặng. Sự đau khổ và nổi nhớ nhung dày vò tôi từng đêm,tôi đã viết nên bài “Diễm xưa” để trút bớt nỗi đau khổ trong lòng. Nhưng lạ một điều là khi tôi viết xong nhạc phẩm này, lòng tôi lại thanh thản,nhẹ nhàng. Tôi cảm thấy vơi đi rất nhiều nỗi nhớ và tình yêu trong lòng tôi bây giờ chỉ còn một chút mong manh như sương, như khói. Nó không còn nồng nàn,mãnh liệt như trước. Một dịp tôi vào Sài Gòn, tìm đến cư xá Diễm đang nội trú với ý định tặng nàng bản nhạc để làm kỷ niệm một thời thơ mộng của tuổi trẻ, rồi thôi. Nhưng không gặp, tôi nhờ mấy người bạn gái đang đứng ở cổng trao lại giùm cho Diễm. Khi tôi đi được một quãng thì nghe tiếng Diễm từ trên ban công gọi theo “Anh Sơn! Anh Sơn ơi! Anh Sơn !”. Nhưng tôi không ngoái lại. Tôi cắm đầu đi thẳng. Tiếng gọi Anh Sơn, anh Sơn vẫn còn nghe văng vẳng sau lưng. Từ ấy đến nay, tôi tự nhủ lòng sẽ không bao giờ gặp lại.
Tôn Nữ Bích Khê và Biển nhớ
Nhóm học sinh Nha Trang khăn gói ra Quy Nhơn học Sư phạm có mười một người, bảy nam và bốn nữ. Các nữ giáo sinh gồm có Mân thị Dưỡng (em gái kề của Mân Thiệu tức nhạc sĩ Thanh Châu,tác giả nhạc phẩm “ Thư gửi người lính chiến”); Nguyễn thị Tảo, Tảo học chung lớp Đệ nhất B3, Võ Tánh với tôi; cô Kiều thị Đợi và Tôn Nữ Bích Khê. Bích Khê có hai người em gái cũng tên Khê, đó là Thuần Khê và Cẩm Khê. Bích Khê dáng người nhỏ, tròn lẳn, nước da ngăm đen như Trịnh Công Sơn, thường đánh tóc rối thành một búi lớn ngược ra sau đỉnh đầu. Mang guốc cao gót, nhọn, hiệu Đakao, đi chân sáo. Đứng xa nhìn Bích Khê đi trông giống như con sáo nhỏ đang ngảy nhót trong sân. Cái búi tóc nhảy tưng tưng theo nhịp bước, người ta có cảm tưởng có lúc nó sẽ kéo người chủ nó té ngửa ra sau. Bích Khê không đẹp nhưng rất có duyên, quyến rũ. Bích Khê cũng ở trong ban hợp xướng. Người lĩnh xướng là Nguyễn thị Ngọc Trinh… Tôi không biết rõ chuyện tình của Sơn và Khê bằng ông Đinh Cường, mặc dù học chung hai năm với nhau. Bởi vì hầu như ngày nào cũng có nhiều cô đến nhà trọ của Sơn. Sau khi bản Biển nhớ được sáng tác và tập dượt để ra mắt buổi văn nghệ thì giáo sinh sư phạm mới lưu ý tới Bích Khê và bàn tán, vì tình cờ hay cố ý, Sơn đã viết “trời cao níu bước sơn khê” trong lời nhạc. Về sau, 1970, tôi được thuyên chuyển về Nha Trang, gặp lại Bích Khê nay đã yên bề gia thất, chồng nàng tên Chương, thợ sửa máy lạnh, có cửa hàng mua, bán – sửa chữa tại đường Quang Trung, đối diện với hiệu ảnh Photo Vỹ. Sau 1975, hai vợ chồng trở nên giàu có hơn xưa. ở Blao tôi có hỏi Sơn về sự liên quan giữa nhạc và người. Sơn nói chỉ là bạn như những người bạn khác. Chữ sơn khê chỉ là tình cờ.
Nhìn những mùa thu đi
Bản “Nhìn những mùa Thu đi” cũng trong trường hợp tương tự. Trong lớp tôi đã có ba cô Thu rồi. Các lớp khác cũng hai hay ba Thu, nên không biết Thu nào đã đến với Sơn hay Sơn đã yêu Thu nào. Mỗi khi có cô Thu nào đi ngang, bọn chúng tôi hát ghẹo “Nhìn những lần thu đi, anh nghe hồn anh đau đớn…”. Mãn khóa, chia tay. Không ai có thì giờ để ý đến chuyện của ai. Chăm chú, hồi hộp đợi danh sách bổ nhiệm, xem cuộc đời đưa đẩy số phận mình đến phương trời nào.
Ca khúc da vàng
Sau vụ bị rao tìm trên đài phát thanh Đà lạt và bị quở trách tại Ty, Sơn trở nên cần mẫn hơn, khuôn phép hơn. Sơn ít đi lại Sài Gòn – Đà Lạt. Thỉnh thoảng có đi thì cũng về kịp sáng thứ hai để đi dạy. Trong thời gian này Sơn nhận được rất nhiều thư. Phong nào cũng dày cộm. Sơn dạy buổi sáng, nên người nhận thư là tôi. Nhìn con dấu bưu điện tôi biết thư được gửi đi từ Huế. Đấy là thư bạn của Sơn… Từ lúc đọc những lá thư dày cộm đó, Sơn bỗng nhiên thay đổi hẳn tâm tính. Lúc nào cũng có vẻ bồn chồn, lo lắng. ít đi lang thang những buổi chiều nữa. Có lúc ngồi trước bàn, thẫn thờ, mắt đăm chiêu nhìn qua cửa sổ hằng giờ, yên lặng với khói thuốc. Có khi điếu thuốc từ lúc châm đến lúc tàn chỉ rít một hai hơi. Chiếc gạt tàn đầy ứ, tràn ra bên ngoài. Sơn mua khóa về khóa chặt va li để cất những thư ấy. Có cái Sơn đem ra sân đốt ngay sau khi đọc.
Sau đó, Sơn lại thường xuyên đi Đà Lạt hơn. Khi hai, khi ba ngày Sơn kể tôi nghe về một trang trại ở Phim Nôm, gần Đức Trọng, một quận của Tuyên Đức. Sơn ở đó với vài người bạn (Sơn không kể tên) bàn chuyện làm ăn. Có lần Sơn rủ tôi làm chung, mỗi tháng lương là mười ngàn.
Hết hè, tôi vẫn còn luyến tiếc thời gian ba tháng trôi qua quá mau. Trở lại căn phòng trên Bảo Lộc, tôi hết đổi ngạc nhiên, khi thấy Sơn đã có mặt ở đây rồi. Căn phòng bừa bộn, bẩn thỉu. Toàn là tàn thuốc. Bao thuốc Bastos xanh trống không xếp đầy chung quanh tường, cao gần tới đầu gối. Sơn nằm dài trên đi văng, mùng vẫn buông, ám khói vàng khè. Dưới gầm bàn, giỏ rác đầy ứ, toàn là giấy quay rô nê ô xỉn vàng, vo tròn, vất đầy mặt đất. Xác cà phê khô đóng mốc xanh, trắng vương vãi chổ này một nhúm, chỗ kia một tụm. Tôi nhìn Sơn ái ngại. Sơn xanh hẳn. Khuôn mặt hốc hác. Người đã ốm lại càng gầy thêm. Gầy rạc. Bộ đồ pijama trở nên rộng thùng thình, đen xỉn, nhàu nát. Có lẽ ba tháng nay không giặt! Nhưng nét mặt lại lộ vẻ vui. Vừa xếp dọn lại chỗ nằm của mình, tôi vừa trò chuyện với Sơn. ” Ông làm gì mà nằm ép rệp ở đây đến ba tháng lận? Không buồn à?”. Sơn phấn khích chìa tập nhạc ra khoe với tôi : “Công trình ba tháng đó”. Tôi cầm xấp bản thảo liếc qua trang đầu có nhan đề “Ca khúc da vàng”, lật thêm mấy tờ bên dưới lại thấy những tựa rất lạ: Gia tài của mẹ, Đàn bò vào thành phố, Người già em bé, Người con gái Việt Nam da vàng v.v… với những lời ca lạ lẫm, khác hẳn những lời trong tình ca đến 180 độ. Tôi ngờ vực có một cái gì đó đã thay đổi con người của Sơn nhưng chưa xác định được rõ ràng nó là cái gì.
Tối đó Sơn hát cho tôi nghe một vài bài tiêu biểu trong tập “Ca khúc da vàng”. Đến những đoạn như “gia tài của Mẹ, một bọn lai căng. Gia tài của Mẹ, một lũ bội tình” hay như “đại bác đêm đêm dội về thành phố, người phu quét đường dừng chổi lắng nghe” hoặc như “tôi có người yêu chết trận đêm qua, chết thật tình cờ”, tôi bỗng nổi da gà. Lời ca thật xúc động, nó xoáy sâu vào tim người nghe rồi chuyền lên óc làm cho rúng động tâm can, tỏa lan dần khắp cơ thể làm cho bải hoải tứ chi.
Dần dà trong bọn chúng tôi ai ai cũng biết Sơn vừa sáng tác một tập nhạc mới. Lại chia làm hai phe. Lúc đó đâu đã có từ “phản chiến” để chỉ loại nhạc này. Chúng tôi ngâm nga hát mỗi bài vài ba câu. Phe thích thì cứ “Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây,hai mươi năm nội chiến từng ngày”, ca cẩm suốt ngày. Phe chê thì bảo ” Xì…nhạc Việt cộng, cha nội Sơn theo Việt cộng rồi”. Tuy nhiên, sau đó lại quên lãng đi. Chúng tôi lại vẫn bù khú bi da, cà phê, xập xám, vui vẻ ồn ào như xưa.
Thời gian sau, Sơn rất bận rộn. Đi đi, về về Sài Gòn – Đà Lạt liên tục. Thường xuyên bỏ trường hơn trước, nhưng thời gian không lâu. Có khi hai, có khi ba ngày. Ông già Thống từ ngày được ông trưởng giáo hào phóng cho 100 điểm, há miệng mắc quai, không còn biết than thở với ai, đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Sơn cho tôi biết là đang chuẩn bị in tập “Ca khúc da vàng” và hé cho tôi biết thêm là giới sinh viên thích lắm, họ đang yêu cầu có những buổi hát ngoài trời gọi là “du ca”. Và Sơn cũng nói đến một vài cái tên sinh viên … sẵn sàng giúp Sơn thực hiện những buổi trình diễn ấy. Những điều Sơn kể cùng những cái tên xa lạ không ăn nhập gì với đời sống đang tươi đẹp của tôi, nên từ tai này qua tai kia, chốc lát tôi quên hết. Khi Sơn đi, tôi còn khối bạn bè để vui chơi. Nào Tín, nào Đạo, Bạch, Lãng, Tâm mập, Tâm lùn, Hinh, Sang, Thao, Hiện, Rầm, Nhượng …Tuần này xuống Tân Hà, đến nhà ông hiệu trưởng Ngọc, hạ cờ tây. Tuần sau kéo nhau vào ấp Lam Sơn, hai bên đường vào ấp, trồng toàn hoa đào, nên còn có cái tên thơ mộng là Đào Hoa thôn, đến nhà ông Tề ngắm phong lan. Lại có lúc, cùng các cô, chúng tôi dạo suối Đại Bình, cách Blao chừng vài cây số. Cứ thế tuổi trẻ của tôi,ngoài việc dạy dỗ các học sinh, đã trải qua những ngày tháng tươi vui, đáng sống ở cái quận lÿ bé nhỏ, mà mới ngày nào tôi gặp Sơn ở bến xe một buổi chiều cuối tuần đìu hiu có mưa rã rích,buồn thúi ruột.
CHIA TAY
Hè 1967, chúng tôi đang mỗi người một nơi nghỉ hè, bỗng đồng loạt nhận được điện khẩn của Ty, nhắn lên gấp để nhận lệnh nhập ngũ. Phía dưới còn bị chú hàng chữ : Nếu trình diện trễ hạn sẽ bị đưa ra trường hạ sĩ quan Đồng Đế. Thế là chúng tôi không hẹn mà gặp nhau một ngày tại Ty. Tay trái nhận lệnh Tổng động viên, tay phải nhận phong bì ứng trước một tháng lương để có tiền ăn đi đường, lên đường nhập ngũ. Không thấy Sơn đâu. Hỏi anh Thành phát ngân viên, anh cho biết Sơn đến hôm qua lãnh lương đi rôì. Tối hôm đó chúng tôi gồm: Đạo, Hinh, Sang, Nghị, Nhượng, Bạch, Tâm lùn, Ngọc (Lãng sốt rét, Thao què giò được miễn) và tôi, uống một bữa thật say. Ai cũng ví mình là Kinh Kha đang ở bên bờ sông Dịch một đi không trở lại. Chỉ tiếc không có ai là Cao Tiệm Ly thổi đưa khúc sáo lên đường. Chúng tôi đang lúc ngà ngà, ôm nhau hát bài “Những ngày xưa thân ái” của Phạm thế Mỹ, cứ lập đi, lặp lại điệp khúc “Chỉ còn tay súng nhỏ, giữa rừng sâu giết thù, những ngày xưa thân ái xin gửi lại cho nhau” rồi cùng nhau khóc, khóc như trẻ thơ, khóc tự nhiên không một chút xấu hổ. Sáng hôm sau tỉnh dậy chỉ còn lại vài mạng, say quá chưa tỉnh nổi, còn bao nhiêu thì đã đi rồi. Tôi ra bến xe, nhìn lại quang cảnh, vẫn y như cũ, không có gì thay đổi, nhưng hôm nay sao thấy buồn quá đỗi. Cái gì cũng có vẻ xa vắng, bơ thờ. Khi xe chạy ngang bờ hồ, tôi thì thầm “Giả từ Bảo Lộc mến yêu, biết bao giờ gặp lại nhau!”. Xe khuất dần, tôi cố ngoái lại lần chót , chỉ còn thấy ngọn cây khô chết giữa hồ. Nước mắt tôi lại ứa ra.
Nguyễn Thanh Ty
(tháng 9/2001)
Trịnh Công Sơn: Cú đòn oan nghiệt của em trai
Không phải ai cũng tin rằng Trịnh Công Sơn là con trai của một cầu thủ nổi tiếng ở Cao nguyên hơn 60 năm trước, cũng ít người tin nhạc sỹ tài hoa này có tới 3 quả thận và nếu không có một bước ngoặt liên quan đến thể thao, có thể ông đã trở thành một võ sư…
Duyên và nợ với thể thao
Đôi kính cận, thân hình gầy nhỏ, nhạc sỹ Trịnh Công Sơn không cho thấy thể chất có bất kỳ điều gì liên hệ với thể thao. Nhưng đây không phải là câu chuyện của ngày nói dối (1/4) mà sự thật một góc nhỏ của Trịnh Công Sơn là thể thao. Thậm chí chính thể thao đã tạo ra bước ngoặt trong cuộc đời nhạc sỹ tài hoa này.
Trịnh Công Sơn mất ngày 1/4/2001, tờ báo (gần như là vinh dự) được bạn bè và gia đình nhạc sỹ Trịnh Công Sơn đăng cáo phó là một tờ báo thể thao: tờ Thể Thao Ngày Nay.
Số báo sáng ngày 2/4/2001, bức hình nhạc sỹ Trịnh Công Sơn và thông tin đã mất chiếm gần chiếm trọn trang nhất.
Nhà thơ Mai Linh – bạn thân thiết của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn nhớ lại: “Khi Sơn chết thật, tờ báo đầu tiên đăng bài của tôi về kỷ niệm với Trịnh Công Sơn ở Huế năm 1977 là tờ Thể Thao Ngày Nay do Đỗ Hóa làm. Báo ra lúc 5h00 sáng ngày 2/4.
Đỗ Hóa đùa bảo: “Trịnh Công Sơn chết rồi mới biết chơi thể thao. Cả đời chỉ biết cử tạ (nâng ly và đặt ly) nhưng lại được ông Mai Linh cáo phó ở báo thể thao”. Đỗ Hóa là võ sư nổi tiếng và cũng nổi tiếng về sự hào hiệp”.
Lúc ấy ông Đỗ Hóa đang là Thư ký tòa soạn tờ Thể Thao Ngày Nay, là người quảng giao quen biết rộng với giới thể thao và văn nghệ sỹ. Ông Đỗ Hóa cũng đặc biệt thân thiết với gia đình ca sỹ Hồng Nhung.
Bởi thế nên ông Hóa cũng được coi là quen thân với nhạc sỹ họ Trịnh. Tiếc là nhà báo Đỗ Hóa mất sau Trịnh Công Sơn hơn hai năm vì chứng ung thư.
Thực ra, ông Đỗ Hóa nói Trịnh Công Sơn cả đời chỉ biết mỗi môn thể thao nâng ly và đặt ly (ý nói Trịnh Công Sơn sành và thích uống rượu) chỉ là cách nói vui. Trịnh Công Sơn đã có thời đam mê thể thao hơn cả đam mê sáng tác nhạc. Không những thế, một trong những bi kịch của đời ông liên quan đến thể thao.
Mê thể thao trước khi mê âm nhạc
Nhiều người đặt ra câu hỏi: “Trịnh Công Sơn có ham muốn trở thành nhạc sỹ từ khi nào?”.
Câu hỏi này đã được chính Trịnh Công Sơn giải đáp trong tùy bút “Phác thảo chân dung tôi”. Tùy bút có đoạn: “Tôi không đến với âm nhạc như một kẻ chọn nghề. Tôi nhớ mình đã viết những ca khúc đầu tiên từ những đòi hỏi tự nhiên của tình cảm thôi thúc bên trong…
Đó là những năm 56 – 57, thời của những giấc mộng ngổn ngang, của những viễn tưởng phù phiếm non dại. Cái thời tuổi trẻ xanh mướt như trái quả đầu mùa ấy, tôi rất yêu âm nhạc nhưng tuyệt nhiên trong tôi không hề gợi lên cái ham muốn trở thành nhạc sĩ…”
Trịnh Công Sơn (bìa phải) thời đi học
Vậy thì năm 1956 – 1957 chàng thanh niên Trịnh Công Sơn lúc ấy đam mê và theo đuổi điều gì? Câu trả lời là thể thao.
Nhiều người bạn của Trịnh Công Sơn khẳng định “Thời trai trẻ, Trịnh Công Sơn có một thân hình rắn chắc, khoẻ mạnh, thích chơi thể thao. Sơn không chỉ luyện tập điền kinh, mà còn học cả Vovinam (Việt võ đạo) đến đai nâu”.
Có tài liệu nói rằng khi còn là học sinh, nhạc sỹ Trịnh Công Sơn còn đoạt giải trong một cuộc thi điền kinh.
Họa sỹ Trịnh Cung – người bạn với Trịnh Công Sơn từ năm 1958 đã nhận xét: “Sơn rất giỏi thể thao. Anh tập 10 môn phối hợp rất được chú ý ở trường học. Sơn cũng giỏi về Nhu Ðạo (Judo) và Boxing”.
Người em trai của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn là ông Trịnh Mạnh Hà kể lại trong hồi ức là: “Tôi và anh Trịnh Công Sơn lúc trẻ tuổi đều học võ thuật tại Huế, quyết chí trở thành thày võ. 18-19 tuổi rồi mà chỉ thấy anh mê võ. Nhà có một cây đàn guitar gỗ cũ nhưng rất ít khi anh Sơn sờ tới.
Anh thường mân mê cặp găng boxer, tập đi bài quyền của phái Vovinam, nghiên cứu và luyện võ theo sách nhu đạo. Anh thường xuyên nói chuyện võ chứ không nghe anh nói chuyện nhạc bao giờ”.
Cùng các bạn ở Sư phạm Quy Nhơn
Sau này, khi sức khỏe không còn cho phép Trịnh Công Sơn chơi những môn thể thao đòi hỏi thể lực thì vẫn có một môn mà Trịnh Công Sơn mê và chơi rất hay: Bida.
Ông Nguyễn Thanh Ty – một người bạn cùng học trường sự phạm Quy Nhơn khóa 1 (1962-1964) với Trịnh Công Sơn. Ông Ty, Trịnh Công Sơn và vài người bạn thân khác sống chung một nhà, sinh hoạt vui chơi với Trịnh Công Sơn tại Bảo Lộc (B’Lao) – Lâm Đồng cho tới năm 1967 – đã kể trong cuốn hồi ký của mình: “Thường trực ở bàn bida, bọn chúng tôi gồm 5 đứa. Sơn (Trịnh Công Sơn- PV), Tâm “mập” (tức Nguyễn Hảo Tâm phân biệt với Tâm “lùn” tức Nguyễn Văn Tâm), Nguyễn Đức Tín, Ngô Thanh Bạch và tôi. Chia thành 2 phe, trường kỳ quyết đấu. Sơn và Tâm “mập” một phe. Tín và Bạch một phe. Tôi bị cho ra rìa vì đánh quá dở. Không bao giờ đi một “cơ” được 3 điểm…
Riêng Sơn, tôi thích ngắm nhìn cái dáng của anh nhất. Người dong dõng, 2 chân dài, anh đứng thẳng người, 2 chân chụm lại, cúi xuống mặt bàn tạo thành một hình thước ở thắc lưng. Anh đặt tay trái xuống mặt bàn, hai ngón út và đeo nhẫn xoè ra hình rẽ quạt tựa xuống mặt nỉ, ngón giữa đỡ ngón cái và ngón trỏ đan hợp nhau thành một vòng tròn, ôm khít khao đầu ngọn cơ.
Trước khi quyết định một đường banh, anh chăm chú nhìn 3a trái bi, tay cầm cục ‘lơ’ miết miết trên đầu ‘cơ’. Khi anh bỏ cục ‘lơ’ xuống thành bàn là đường ‘cơ’ đã quyết định. Anh đánh thong thả, nhẹ nhàng, xoay quanh bốn cạnh bàn một cách khoan thai, từ tốn, không một chút phí sức. Tối thiểu một đường cơ của anh phải từ năm điểm trở lên.
Người nhạc sỹ tài hoa của nền âm nhạc Việt Nam
Tuy nhiên, có bữa phe anh cũng thua tơi bời hoa lá. Anh không thể nào cứu nổi bồ, khi Tâm mập chơi bết bát quá. Trong khi 2 tay Bạch và Tín ngang sức, ngang tài. Chúng tôi chơi giải trí không ăn tiền. Cá độ bằng những chầu cà phê, bữa cơm trưa hoặc chầu bia tùy theo giờ giấc sáng, trưa, chiều và có lúc cả buổi tối nữa…”
Thậm chí, năm 1988, trong tùy bút “Về một thành phố tôi đã xa”, Trịnh Công Sơn đã hoài niệm và gắn với môn thể thao mình yêu thích: “…Tôi soi vào quá khứ và tôi nhìn thấy tôi ở biển trong những ngày biển động và biển lặng. Tôi nhìn thấy tôi lang thang trên đường phố Quy Nhơn một mình. Một mình đánh billard ở đường Võ Tánh. Một mình nằm ngủ trong căn nhà trọ vào giờ giấc mà mọi người sum họp vui vầy với nhau…”
Tưởng chừng chon người rất có duyên với thể thao, từng mơ ước trở thành ông thầy dạy võ, hoặc một VĐV cừ khôi đã có ngã rẽ quyết định của mình: một tai nạn khi tập võ cùng em trai đã khiến chàng thanh niên sôi nổi Trịnh Công Sơn nằm bẹp gần 2 năm trời, đó là những ngày tháng Trịnh Công Sơn đã tìm cho mình một lẽ sống mới, một đam mê mãnh liệt mới: âm nhạc…
Hết đam mê nghiệp võ
Điều không ngờ là thể thao đã góp phần tạo nên bước ngoặt lớn trong cuộc đời Trịnh Công Sơn: Năm 1957 trong chuyến về thăm nhà giữa năm học, một lần nhạc sỹ Trịnh Công Sơn tập thể thao với em trai kế Trịnh Quang Hà. Cậu em tung đòn vai, Trịnh Công Sơn ngã xuống sàn, cùi chỏ Hà vô tình đập vào ngực Sơn làm vỡ mạch máu phổi.
Về chuyện này, ông Trịnh Quang Hà kể rằng cả ông và Trịnh Công Sơn lúc trẻ tuổi đều học võ thuật tại Huế, quyết chí trở thành thày võ.
Trịnh Công Sơn và em trai Trịnh Mạnh Hà
Trịnh Công Sơn khi ấy chẳng quan tâm về âm nhạc: “Anh Sơn đã lớn, 18-19 tuổi rồi mà chỉ thấy anh mê võ. Nhà có một cây đàn guitar gỗ cũ nhưng rất ít khi anh Sơn sờ tới. Anh thường mân mê cặp găng boxer, tập đi bài quyền của phái Vovinam, nghiên cứu và luyện võ theo sách nhu đạo. Anh thường xuyên nói chuyện võ chứ không nghe anh nói chuyện nhạc bao giờ.
Cho đến “một buổi sáng mùa hè năm 1957, anh Sơn và tôi tập nhu đạo để chuẩn bị thi lên đai “ma-rông” ở sân nhà trên đường Phan Bội Châu (ngã giữa Huế). Sau một hồi hai anh em tập dượt, quần thảo thì sự cố xảy ra. Khi tôi dùng sức đưa cú đấm “đơ-dem-ê-côn” thì anh Sơn cũng dùng hết sức chặn.
Tôi rị lại, té nhào trên mình anh Sơn và không cưỡng nổi quán tính của đường quyền đang chuyển động, cùi chỏ của tôi theo đà ấn xuống, đập một đòn chí mạng vào ngực anh. Anh Sơn thổ huyết lai láng (gần cả thau) và nằm ngục ngay tại chỗ.
Sau biến cố này, Trịnh Công Sơn nằm liệt giường suốt hai năm. Trong suốt cả năm đầu ông phải húp cháo lỏng và ăn uống cần người đút. Khi Trịnh Công Sơn gượng dậy được thì thú vui của ông là “cây đàn bỏ quên”.
Ông Trịnh Quang Hà cho rằng “miếng đòn định mệnh” đã đưa Trịnh Công Sơn từ giấc mơ võ sư sang đời nhạc sĩ.
Sau khi rời giường bệnh, Trịnh Công Sơn đã có một niềm đam mê khác, ông từng thổ lộ với một vài người bạn thân thiết của ông: “Khi rời khỏi giừơng bệnh, trong tôi đã có một một niềm đam mê khác – âm nhạc. Nói như vậy hình như không chính xác, có thể những điều mơ ước, khát khao đó đã ẩn chứa từ trong phần sâu kín của tiềm thức bỗng được đánh thức, trổi dậy”.
Thể thao có lẽ không cần phải tiếc khi đã không có một võ sư Trịnh Công Sơn bởi định mệnh từ thể thao đang góp cho âm nhạc nước nhà một báu vật: nhạc sỹ Trịnh Công Sơn
Vịn âm thanh đứng dậy
Thật ra, rất ít khi Trịnh Công Sơn nhắc đến cú đánh làm thay đổi đời mình (theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng). Đó chỉ là một tai nạn. Những năm từ 1955 cho đến 1960 là một chuỗi ngày u ám của gia đình Trịnh Công Sơn: bố mất, bản thân nằm trên giường bệnh, gia đình phá sản phải chuyển chỗ.
Bút tích của Trịnh Công Sơn
Họa sỹ Trịnh Cung cho rằng: “Nếu Sơn không bị những sự kiện đó, tôi nghĩ là Sơn sẽ đi học ở Paris và sẽ trở thành một tiến sĩ, một bác sĩ, một kỹ sư … chớ không phải là một nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Tôi cho biến cố đó đã đặt Trịnh Công Sơn vào tình trạng cô đơn, tuyệt vọng. Sơn tập chơi guitare, tự học guitare với một người bạn, rồi sau đó viết ca khúc “Ướt Mi”.
Hình như chỉ một lần, Trịnh Công Sơn thổ lộ: “Tôi đến với âm nhạc có lẽ cũng vì tình yêu cuộc sống. Một phần cũng do một khúc quanh nào đó của số phận.
Thời trẻ tôi học võ và chơi những môn điền kinh. Sau một cơn bệnh nặng kéo dài hơn hai năm do tập dợt judo với người em trai và bỗng nhiên muốn bày tỏ một điều gì đó với cuộc đời. Tôi vốn thích triết học và vì thế tôi muốn đưa triết học vào những ca khúc của mình. Một thứ triết học nhẹ nhàng mà ai ai cũng có thể hiểu được như ca dao hoặc những lời ru con của mẹ. Triết học Việt Nam có đó nhưng không được hệ thống hóa vì nó bàng bạc trong đời sống nhân gian.
Tôi không bao giờ có tham vọng trở thành một người viết ca khúc nổi tiếng nhưng đời đã tặng cho tôi món quà ấy thì tôi không thể không nhận. Và khi đã nhận rồi thì mình phải có trách nhiệm đối với mọi người. Vì thế tôi đã cố gắng làm thế nào để có thể trong những bài hát của mình chuyên chở được một thông điệp của lòng nhân ái đến với mọi người”.
Ca từ của Trịnh có mãnh lực diệu kỳ cuốn hút người thưởng ngoạn nghệ thuật
Cũng chính từ tai nạn ấy, từ những tháng ngày nằm trên giường bệnh, từ chỗ phải đối mặt với lằn ranh sinh tử sống/chết, Trịnh Công Sơn luôn day dứt về sự ra đi và ở lại của cuộc đời.
Ông từng chia sẻ: “Mỗi bài hát của tôi là một lời tỏ tình với cuộc sống, một nhắn nhủ thầm kín về những tuyệt vọng và cũng là nỗi lòng tiếc nuối không nguôi đối với buổi chia lìa cùng mặt đất mà tôi đã một thời gia sẽ những buồn vui với mọi người”.
Kiến thức âm nhạc sẵn có Trịnh Công Sơn tìm vào thế giới âm thanh như một lối thoát, một khúc quanh, một ngã rẽ tình cờ của thân phận vô thường.
Không chỉ có thế, theo nhận xét của nhiều người “Nhạc của ông đã có đường bay nghệ thuật riêng. Ca từ của Trịnh có mãnh lực diệu kỳ cuốn hút người thưởng ngoạn nghệ thuật…”
“Ướt mi” là ca khúc ra mắt công chúng đầu tiên của Trịnh Công Sơn sau khi rời giường bệnh:
…Buồn ơi trong đêm thâu,
Ôm ấp giùm ta nhé
Người em thương mưa ngâu
Hay khóc sầu nhân thế
Tình ta đêm về,
Có ấm từng cơn mơ em chưa…
Trong tản văn có tên “Một cõi đi về” đăng trên tạp chí Sóng Nhạc năm 1992, Trịnh Công Sơn viết:
“Chết là sự tan biến của thể xác. Nhưng sống không chỉ là sự tồn tại của thân xác. Nhiều người còn sống mà tưởng chừng như đã chết. Nhiều người chết mà vẫn còn sống trong trí nhớ mọi người.
…
Cái mất không bao giờ mất hẳn
Cái còn không hẳn mãi là còn”
Nói theo cách của nhà báo thể thao nổi tiếng Chánh Trinh (Lý Quý Chung): “Nếu người em trai của Sơn không tung một cú quật, khiến ngực anh đập mạnh xuống sàn nhà làm vỡ mạch máu phổi phải nằm giường suốt hai năm, thì chắc chắn chúng ta chỉ có một vận động viên Trịnh Công Sơn… (chưa hẳn xuất sắc?) và mất đi một Trịnh Công Sơn – tài năng âm nhạc…
(Bài viết có sử dụng tư liệu từ cuốn sách “Trịnh Công Sơn: Tôi là ai, là ai…”, các báo và internet)
Theo VTC