Chuyện văn chương “Đọc lại ĐINH PHỤNG TIẾN trước 1975” Du Tử Lê

Đọc lại Đinh Phụng Tiến, Truyện ngắn,

du tử lê

DU TỬ LÊ

nón sắt

Độc giả tạp chí Trình Bày của nhà văn Thế Nguyên (1) trước tháng 4-1975, hẳn chưa quên, tạp chí này đã chọn con đường dùng thơ, văn để lên án chiến tranh, phản đối sự có mặt của người Mỹ ở miền Nam. Những cây bút nòng cốt của nhóm, cũng không quên tấn công mạnh mẽ những nhà văn không cùng lập trường. Họ xếp những nhà văn đứng ở phía đối nghịch vào hàng ngũ của những người mà, họ gọi là cổ suý cho dòng “văn chương viễn mơ”. Nhà văn bị coi đứng đầu khuynh hướng “văn chương viễn mơ”, bị nêu đích danh là nhà văn Mai Thảo. (2) Nhóm này cũng gần như công khai tố giác những gì mà, họ cho là sai trái của chế độ miền Nam.

Dĩ nhiên, mọi nỗ lực làm sáng lên hay, nêu bật chủ trương của mình, dù ở lãnh vực nào, cũng đều dễ vượt qua biên giới của thực trạng, hay bước quá xa nhu cầu phản ảnh trung thực thời thế.

Đa số những cây bút chính của nhóm Trình Bày đều có chung nỗ lực cường điệu hóa mọi thảm kịch miền Nam và, gần như họ không bao giờ tự đặt câu hỏi:

– Chiến tranh, những mảng tối chất đầy lở loét của những bất hạnh đất nước tại sao? Và bởi đâu?

Giữa bầu khí nghiêng, lệch nghiêm trọng một phía của tạp chí Trình Bày thì, chí ít cũng có một cây bút thoát khỏi bóng cờ phản chiến, lên án chế độ của nhóm chủ trương. Đó là nhà văn Đinh Phụng Tiến.

Là người có liên hệ thân tộc với cố nhà văn Thế Nguyên, nhưng họ Đinh cho thấy, ông độc lập với đường lối của Trình Bày. Cũng có thể nói, ông là mặt khác, phía bên kia của dàn nhạc đại hòa tấu mang tên Trình Bày.

Là người cẩn trọng với ngòi bút của mình, Đinh Phụng Tiến sáng tác không nhiều. Lại nữa, gần như truyện của ông chỉ xuất hiện trên tạp chí Trình bày mà, không thấy ở các diễn đàn văn chương khác.

Tác phẩm đầu tay “Hòn Bi” của Đinh Phụng Tiến do nhà Trình Bày ấn hành năm 1967. Hai năm sau, ông có thêm “Cơn Lốc” cũng mang nhãn hiệu nhà xuất bản này.

Cả hai truyện nói trên, đều có số trang khiêm tốn. “Hòn Bi” chưa tới 100 trang. “Cơn Lốc” dầy hơn, khoảng 150 trang. Vì chúng không quá ngắn, để gọi là truyện ngắn mà, cũng chưa đủ dài, để có thể xếp vào loại truyện dài. Do đấy, nếu cần phải xếp loại cho hai 2 tác phẩm văn xuôi kia của Đinh Phụng Tiến, theo tôi, có lẽ chỉ danh “truyện vừa” là tương thích hơn cả.

“Hòn bi” và “Cơn lốc” xuất hiện, tuy không tạo được tiếng vang lớn, ở giai đoạn đó; nhưng, đọc lại, độc giả sẽ thấy: Đó là hai tác phẩm đem lại sự “quân bình” phần nào, cho sự xu hướng quá độ của nhóm Trình bày – – Nhờ tính khách quan, độ sâu, chín tự thân của nội dung tác phẩm.

Nhân vật chính trong cả hai truyện vừa, có thể coi là đại diện cho đa phần thanh niên miền Nam thời giặc giã. Họ tiêu biểu cho thế hệ thanh niên miền Nam thời bấy giờ. Họ bị động viên. Vào quân trường. Ra mặt trận. Cả hai nhân vật chính đều mang cấp bậc Trung úy. (Trong hàng ngũ sĩ quan thì đó là một cấp bậc thấp. Cho thấy họ mới ra trường, ở với lửa đạn, chưa quá 6 năm).

Tôi nghĩ, chẳng cần phải chú ý nhiều, độc giả cũng sẽ dễ dàng nhận ra: Họ Đinh không nhắm dùng văn chương để “tố cáo chế độ miền Nam”. Ông cũng không cho thấy một cố tình ngợi ca người lính quá lố…

Nói cách khác, người lính, trong truyện Đinh Phụng Tiến là một người bình thường. Một thanh niên với đầy đủ những ưu, khuyết của một con người.

Người đọc không tìm thấy những than oán việc ông bị động viên vào quân đội. Nhưng, tuyệt nhiên, người đọc cũng tìm thấy trong truyện của ông những dòng chữ mang ý nghĩa của những tự phong, tự trao cho mình, những vòng nguyệt quế vinh quang từ vai trò người lính đánh giặc.

Bằng văn phong điềm tĩnh, khá lạnh, truyện của Đinh Phụng Tiến không có những dồn dập cao trào của các nút thắt, mở. Tựa như ông không chọn cho truyện của ông, những biến chuyển dồn dập, để đẩy không khí truyện tới những đỉnh điểm gay cấn, lôi cuốn, hấp dẫn độc giả. Mặc dù không gian, những tình huống truyện, luôn được ông mô tả một cách chi tiết, như thể đó là những nơi chốn ông đã đi qua. Đã sống với. (Hay tác giả cố tình xóa mờ vai trò của hư cấu, tưởng tượng, trong văn chương của mình?)

Với tôi, 2 tác phẩm của họ Đinh, giống như một loại bút ký hay hồi ký. Tôi nói giống như, bởi bút ký hay hồi ký, vốn không đòi hỏi phải có tính văn chương, như trong “Hòn bi” và “Cơn lốc” của Đinh Phụng Tiến:

“…Quận Kiên Đực nằm trên ngã ba của những trục giao thông cao nguyên. Quốc lộ 13 đi lên, Quốc lộ 14 ở chỗ này. Rẽ phải, đường liên tỉnh dẫn về thị xã bằng một quãng đường gần mười ba cây số. Buổi sáng, chuyến xe đò độc nhất già nua đưa một vài khách hàng quen thuộc về thị xã. Chuyến xe ấy sẽ trở ra vào buổi chiều cùng với vài thùng rượu đế và những mớ rau ế của ban mai.

“…Quận đường và văn phòng Chi khu dựng trên đỉnh đồi cao. Dưới chân đồi là dãy phố nghèo nàn, tiệm ăn của người Tầu, quán cà phê thường mở cho đến khuya. Tiệm hớt tóc do ông Chủ tịch xã kiêm Trưởng chi Bưu điện làm chủ. Những chiếc xe ủi đất sau khi hoàn tất công việc trong ngày trở về nằm lười biếng trên lưng dốc vào mỗi buổi chiều. Có những người dân miền núi xếp hàng dọc rất dài đi giữa phố với gùi trên lưng và xà gạc vác trên vai. Đôi khi, những thớt voi to trở về trong khuya khoắt gây ồn ào trong mùi bùn, mùi đất khô lẫn với mùi khói ẩm…”

(“Hòn Bi”, trang 23)

Hoặc:

“…Suốt ngày hôm nay tôi đã đi trên một đoạn đường mệt nhọc. Những ngày phía trước không biết ra sao. Những tháng ngày sau lưng, để lại trong tôi những vết hằn sâu đau nhức. Đó là những tháng ngày buồn tẻ của một người lính không có những kỷ niệm hào hùng. Những công tác mở đường nhàm chán. Những lần bị đánh lén không kịp trở tay và những xác người ngã xuống, trong đó có cả bạn lẫn thù. Tôi và con Tư đều không nhìn rõ mặt nhau và cũng chưa hề trao đổi với nhau một lời. Điều ấy thật khó cho tôi, dù là khi nằm với một đứa gái điếm, để có thể làm tình tự nhiên

“Tôi nằm quay mặt ra phía ngoài, đầu óc hoang mang hỗn độn. Tôi cảm thấy khó chịu và tự nhiên giận với cả chính mình. Khi không rơi vào một hoàn cảnh oái oăm. Tôi thèm một giấc ngủ để quên. Quên luôn cả việc ngày mai sẽ trình diện đơn vị mới và không biết tôi sẽ phải làm gì. Tôi muốn quay trở lại Saigon ngay tức khắc…”

(“Cơn lốc”, trang 37)

Đó là một vài thí dụ về tính hiện thực và, thấp thoảng bản năng con người trong truyện của Đinh Phụng Tiến vậy.

Viết về chiến tranh, hầu như tác giả nào cũng ghi lại ít, nhiều cận ảnh hiện trường những trận đánh…hào hùng. Ngay cả khi tác giả đó không hề có mặt. Đinh Phụng Tiến khác hơn. Bối cảnh cả hai truyện-vừa “Hòn bi” và “Cơn Lốc” của ông, đều là đời sống của một người lính bình thường. Hiểu theo nghĩa rất người. Lại nữa, thay vì mô tả hiện trường những trận đánh, ông lùi lại phía sau. Có khi rất xa. Để bằng đôi mắt người chứng và, sự điềm tĩnh của một nhà văn, ông dẫn độc giả bước vào những góc khuất. Những nơi chốn không hề có cảnh súng nổ, máu đổ, thịt rơi hoặc, mịt mù thuốc súng. Nhưng ở đó lại có những những cuộc đời vẫn phải sống tiếp! Sống cùng những viên đạn, những miểng bom vô hình, đã găm sâu trong tâm hồn họ!

Tôi muốn nói tới “hậu-hiện-trường” một trận chiến. Tôi thấy, dường không một trận đánh nào ngưng bặt tiếng súng! Nếu hiểu âm vang của đạn bom có khả năng tàn phá khốc liệt hơn cả khi trận chiến đang diễn ra, trên những mảnh đời liên hệ, còn lại…

Trong truyện “Hòn bi”, nói về một thiếu nữ, sớm trở thành gái bán dâm, họ Đinh viết:

“… Vào khoảng năm 1954, cha Lệ tập kết ra Bắc. Và đúng ba năm sau, mẹ Lệ tự coi như thời gian để tang chồng đã xong và bà kết hôn với một người tá điền ở xã Hoài Thanh.

“Sau Lệ còn có hai đứa em nữa. Nhà nghèo và chật chội nên Lệ ngủ vói người cha ghẻ. Người đàn ông rất thương lệ. Tuổi thơ của Lệ được xoa dịu phần nào những thiếu hụt vật chất và tinh thần.

“Năm mười sáu tuổi, một cơn lốc dữ dội đem vào đời nó nỗi đau rùng rợn: Người cha ghẻ làm tình với nó vào một đêm tiếng súng nổ ào ạt trong làng (…)

“Cuộc đời Lệ rẽ qua một khúc quanh tàn khốc từ đêm ấy.

“Sáng hôm sau nó cuốn gói ra đi để khỏi nhìn người cha ghẻ, khỏi phải nhìn mẹ và em. Khỏi nhìn nỗi ân hận, dằn vặt khôn nguôi.

“Nó đến Bồng Sơn và lấy một người lính mang lon Hạ sĩ làm chồng (…)

“Một buổi chiều, người ta mang từ mặt trận trở về những xác chết, trong đó có chồng Lệ. Nước mắt chưa kịp khô. Đời sống của Lệ hết sức khó khăn với số tiền trợ cấp ít ỏi không đủ làm vốn liếng sau đám tang chồng. Tám tháng sau, Lệ lấy một người lính vốn dưới quyền chỉ huy của chồng (…) Nhưng lần này Lệ để tang thực sự là vĩnh viễn. Chồng Lệ dẫm phải mìn và chết co quắp bên kia đường tầu, lối đi Tam Quan, lối về Hoài Thanh (…)

“- Và bây giờ em làm gái điếm đó anh.

“Con Lệ nói với tôi trong vùng nước mắt nghẹn ngào…” (3)

Nếu sân khấu diễn biến bi kịch đời “con Lệ” là một khu gia binh thì, trong “Cơn lốc” bi kịch lại diễn ra ở một nơi rất xa tầm vói của bom đạn. Một thôn quê lặng lờ những phận đời mờ nhạt… Nhưng không vì thế mà định mệnh không tìm đến, hăm hở vung khăn tang lên nhiều mái đầu:

“…Nhà anh Hà nằm đó, bên một con mương, cửa liếp tre trống trải.

“Tôi và ông Liên gia trưởng đẩy cửa bước vào. Bên trong là một khung cảnh đầm ấm: Bữa cơm tối muộn màng, manh chiếu trải trên nền đất. Tôi thấy một cụ già đầu tóc bạc, người đàn bà trẻ và ba đứa nhỏ.

“Khi tôi và ông Liên gia trưởng bước vào thì cả cái gia đình ấy đều tỏ ra rất đỗi ngạc nhiên. Cụ già và người đàn bà trẻ tuổi đứng dậy chào chúng tôi. Mâm cơm họ đang ăn dở và tôi nhìn thấy có đĩa rau luộc, hai tô nước và vài con cá nướng. Ông Liên gia trưởng lên tiếng trước:

“- Chị Ba nè, có ông ở Long Khánh về đưa tin cho chị đó.

“Chị Ba, người đàn bà trẻ bước tới mà tôi đoán ngay đó là vợ anh Hà. Tôi không biết phải nói thế nào khi tôi nhìn thấy bụng chị khá to. Tôi độ chừng chị có thai khoảng bốn, năm tháng. Không khí trong nhà lặng đi trong chốc lát. Ông Liên gia trưởng lên tiếng:

“- Chị bình tĩnh chưa?

“Rồi ông quay lại phía tôi:

“- Ông Hai nói đi. Nói đi.

“Tôi ngập ngừng mất ít giây rồi lên tiếng:

“- Thưa chị, tôi là…bạn anh Hà.

“Người thiếu phụ ấy đáp ngay bằng một giọng khô khan:

“- Dạ, tôi…vừa nhận thư và ‘măng đa’ tiền lương của ảnh gửi về hồi chiều nay.

“Nói đoạn, chị lật đật móc trong túi áo ra đưa cho tôi coi tấm ngân phiếu hai ngàn năm trăm đồng. Tôi nói nhanh:

“- Tôi là bạn cùng đơn vị với anh Hà, ở…

“- Dạ…Gia Ray…

“Tôi nói nhanh:

“- Tôi báo tin buồn chị hay…anh Hà mất hồi sáng hôm qua. Ngày mai, xác sẽ về tới nghĩa trang quân đội ở Dĩ An. Vậy gia đình lên đó mà nhận xác, kẻo lộn.

“Không khí trong nhà chợt khô.

“Phút chốc, và cùng một lúc, nhiều tiếng khóc la òa vỡ. Chị Hà nắm lấy tay tôi, lắc đi lắc lại nhiều lần cùng với tiếng gào thét của chị:

“-Sao? Sao? Thầy có cùng đánh trận với chồng tôi không?

“Tôi gật đầu, trong khi chị Hà òa lên với tiếng gào và tiếng khóc lẫn lộn, Sao thầy không chết mà chồng tôi lại chết? Anh Hà ơi, chiều nay mới nhận được thư anh báo sắp lên Trung sĩ nhất, mà giờ anh ở đâu? Anh ở đâu?

“Chị Hà chợt nấc lên vừa khi tôi nhìn thấy tấm ngân phiếu hai ngàn năm trăm đồng vuột ra khỏi tay chị…” (4)

Thản hoặc, trong truyện của họ Đinh cũng có đôi chỗ mô tả hậu-hiện-trường, hay “cánh gà” của sân khấu một trận đánh vừa chấm dứt. Tuy nhiên, như đã nói, không một trận đánh nào ngưng bặt tiếng súng! Nếu hiểu âm vang của đạn bom có khả năng tàn phá khốc liệt hơn, khi chiến trường được thu dọn, kết toán:

“…Tôi kêu hiệu thính viên báo cáo về tiểu khu và gọi thêm vài tiểu đội nữa ở ngoài vào trong đồn để thu dọn các xác chết. Những xác này cần phải thu lại để chờ sáng sẽ tính. Những xác chết ấy được để nơi sân cờ. Nhưng một tiếng nổ lớn chợt phát ra từ phía cuối sân. Có nhiều tiếng la thét ở phía ấy. Tôi chạy tới thật nhanh. Hai binh sĩ nằm trên vũng máu, bên cạnh một xác chết. Tôi hỏi, cái gì thế? Một người nào đó nói, tụi nó gài lựu đạn dưới lưng xác chết (…) Cái bẫy này xưa như trái đất nhưng chúng tôi vẫn bị. Mỗi lần khiêng một xác, binh sĩ phải cột giây vào tử thi rồi giật tới giật lui thăm dò xem có chất nổ hay không (…)

“…Nắng đã lên làm tan sương mù của buổi mai. Một chiếc phi cơ quan sát loại L.19 nghiêng cánh từ xa. Chúng tôi liên lạc được với họ rất tốt. Chiếc máy bay ấy bay trên đầu chúng tôi với một vòng tròn nhỏ trên bầu trời quang đãng. Chúng tôi liệng một trái khói để đánh dấu vị trí của mình. Người phi công xà thấp xuống, bay vụt qua sân đồn và qua chiếc cửa số bé tí, người quan sát viên thò tay ra vẫy vẫy (…) Anh bảo sẽ có một ‘thằng’ đến thế chỗ cho chúng tôi trong vòng vài giờ đồng hồ nữa. Trực thăng tản thương sắp tới để ‘bốc’ hai người lính bị thương hồi đêm. Thật may mắn cho chúng tôi, những người lính bị thương sẽ qua khỏi. Ít khi tôi có được một niềm vui như thế. Những người lính của tôi sẽ được cứu mạng đúng lúc…” (5)

“Ít khi tôi có được một niềm vui như thế”, đó là một cụm từ trong trích đoạn trên của Đinh Phụng Tiến. Một cụm từ bình thường thôi! Không chút văn hoa, bóng bẩy, mới lạ nào! Nhưng tôi lại thấy nó phản ảnh một cách chân thật nhất, cái ý nghĩa thâm sâu của tình đồng đội và, rộng hơn: Nghĩa đồng bào!

Du Tử Lê.

Để lại lời nhắn

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.